Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

TRUYỆN VỀ CÁC MỸ NHÂN TRUNG QUÔC(RẤT HAY )


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "TRUYỆN VỀ CÁC MỸ NHÂN TRUNG QUÔC(RẤT HAY )": http://123doc.vn/document/573564-truyen-ve-cac-my-nhan-trung-quoc-rat-hay.htm


23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
D¬ng Quý Phy
Tiểu sử
Dương Quý Phi tên thật là Dương Ngọc Hoàn , sinh ở tỉnh Tứ Xuyên vào khoảng năm
719. Bà là con út trong số bốn người con gái của một vị quan tư hộ đất Thục Chân. Gia
đình này nguyên gốc ở một quận nhỏ thuộc Trung Đông[1], là Hòa Âm đến đây lập
nghiệp. Cha là Dương Huyền Diễn thuộc dòng khá giả vì tổ phụ từng làm thứ sử tại quận
Kim.
Thọ vương phi Năm 727, Hoàng Thọ vương Lý Dục, con thứ 18 của Đường Huyền
Tông đi tuần tiễu miền Tứ Xuyên đến tiếp xúc với gia đình nàng. Chín năm sau, Ngọc
Hoàn được tiến cung hầu Lý Dục. Thọ vương Lý Dục tính nhút nhát, thích ngắm mỹ
nhân. Dương Ngọc Hoàn về hầu hạ Lý Dục được ba năm, nhưng chuyện chăn gối chẳng
bao giờ có vì Lý Dục còn nhỏ. Khi ấy, Ngọc Hoàn lại trong tuổi dậy thi.Do vì bị Lý Dục
quá hay làm khó nên nàng đã có Ý định ra khỏi cungkhi vua Lý Dục dụ nàng đi ra khỏi
hoàng cung.
1
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
Quý phi Lấy cha chồng
Đời nhà Đường, Đường Minh Hoàng tức Huyền Tông là một ông vua trị vì lâu hơn cả.
Các cung phi được nhà vua sủng ái sinh cả thảy 59 người con, trong số đó có 30 trai và
29 gái. Cung phi được nhà vua sủng ái nhất là Vũ Huệ Phi. Bà này sinh được 7 con,
nhưng bỏ mất 3 khi còn nhỏ. Huệ Phi mất, Huyền Tông buồn rầu, ngày nhớ đêm thương,
lập đài Tập Linh để cầu siêu cúng vái cho vong hồn Huệ Phi được sớm siêu thăng. Nội
giám thấy nhà vua vậy bèn tìm đủ mọi cách làm cho nhà vua nguôi buồn. Nhưng bao
nhiêu cung tần mỹ nữ cũng không làm Huyền Tông khuây khỏa.
Một hôm Cao Lực Sĩ đi qua phủ Thọ vương thấy Ngọc Hoàn là giai nhân tuyệt sắc, bèn
nghĩ rằng có lẽ mỹ nhân này thay được Vũ Huệ Phi. Nhân buổi hầu vua, Cao Lực Sĩ mật
tấu với Huyền Tông, truyền đưa Dương Ngọc Hoàn vào Tập Linh đài để trông coi đèn
nhang sớm hôm cầu nguyện cho Vũ Huệ Phi. Do đó, Ngọc Hoàn phải vào cung Hoa
Thanh đến đài Tập Linh làm sãi, lấy đạo hiệu là Thái Chân. Cao Lực Sĩ lại chọn con gái
của Vị Chiêu để thay Ngọc Hoàn làm vợ Thọ vương Lý Dục.
Được sủng ái
Trông thấy Ngọc Hoàn, Huyền Tông say mê mẩn ngay, từ đó dần quên đi Huệ Phi.
Huyền Tông lập nàng làm quý phi, lại sắc phong Dương Huyền Diễn làm Binh bộ
thượng thư. Ba chị của Ngọc Hoàn cũng được phong làm phu nhân là Hàn quốc phu
nhân, Quốc quốc phu nhân và Tần quốc phu nhân. Hàng tháng, nhà vua cho xuất của kho
30 vạn quan tiền cho mỗi vị phu nhân, 10 vạn quan tiền mua sắm tư trang phấn sáp. Anh
họ quý phi là Dương Xuyên được phong làm tể tướng và được đổi tên là Dương Quốc
Trung.
Huyền Tông say đắm Dương Quý Phi, chiều chuộng nàng hết mực. Như cuộc đi tắm
suối của nàng mỗi lần tốn hàng vạn bạc của kho và làm chết hàng trăm mạng người, nhà
vua cũng thẳng tay, không chút tiếc rẻ. Dương Quý Phi đã đẹp lại có tài gẩy tỳ bà, giỏi
về âm nhạc. Nàng lại đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho Huyền Tông càng
thích thú say sưa hơn. Nàng nổi tiếng với điệu múa Hồ hoàn vũ, là điệu múa xuất phát từ
người Hồ.
Huyền Tông gặp Dương Quý Phi lúc tuổi đã ngoài 50, cơ thể suy nhuợc vì trải qua
những thú vui sắc dục thái quá. Vua nhờ An Lộc Sơn dâng một thứ linh đan gọi là "Trợ
tình hoa" giúp có nhiều sức khỏe để được hòa hợp vui say cùng Dương Quý Phi.
Tư thông với An Lộc Sơn
Huyền Tông say đắm Dương Quý Phi, suốt ngày đêm cùng nàng yến tiệc đàn ca, bỏ cả
việc triều chính. Nhà vua lại tin dùng An Lộc Sơn là một võ tướng người Đột Quyết, cho
giữ phần chỉ huy nửa lực lượng quân sự của triều đình. Có sách lại chép An Lộc Sơn
được Dương Quý Phi nhận làm con nuôi, được tự do ra vào cung cấm để cùng thông
dâm với Quý Phi. Huyền Tông mù quáng, không hiểu biết gì cả
Kết cục
Bấy giờ, anh Dương Ngọc Hoàn là Dương Quốc Trung nắm giữ toàn quyền binh lực.
Sau khi lên đến bực thượng thư và hai con trai là Dốt và Huyên sánh duyên cùng hai
quận chúa Vạn Xuân và Diên Hòa, Dương Quốc Trung lại càng kiêu hãnh, tự đắc, có ý
định phản nghịch. Thấy An Lộc Sơn như cái gai trước mắt nên định mưu hại. An Lộc
2
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
Sơn biết được nên bỏ trốn. Rồi vào ngày 16 tháng 12 năm 755, An Lộc Sơn cử binh từ
quận Ngư Dương đánh thẳng vào kinh đô Trường An, lấy lý do "trừ bỏ gian thần Dương
Quốc Trung". Binh triều đại bại.
Vào mùa hạ năm 756, quân của An Lộc Sơn tiến về Trường An. Trước tình thế nguy
cấp, thái tử Lý Hanh tự lên ngôi ở núi Linh Vũ, tức là Đường Túc Tông và vọng tôn
Đường Minh Hoàng làm Thái thượng hoàng. Trong khi các cánh quân được vua con Túc
Tông cử đi đánh Lộc Sơn là Lý Quang Bật, Quách Tử Nghi đang thắng liên tiếp, giành
lại nhiều đất đai ở phía đông sau lưng An Lộc Sơn thì Huyền Tông lại mắc sai lầm lớn ở
mặt trận phía tây. Vua cha bắt tướng trấn giữ ải Đồng Quan - cửa ngõ kinh thành Tràng
An - là Kha Thư Hàn phải xuất quân đánh Lộc Sơn, trong khi các tướng muốn phòng thủ
để chờ quân của Tử Nghi và Quang Bật đánh về. Thư Hàn buộc phải ra quân, kết quả đại
bại, 20 vạn quân bị giết, Thư Hàn bị Lộc Sơn bắt sống. Quân Phiên ào ạt tiến vào Tràng
An.
Thượng hoàng Huyền Tông và Dương Quý Phi cùng một số quần thần phải bỏ kinh
thành chạy vào đất Thục. Ngày 14 tháng 7 năm 756, mọi người đến Mã Ngôi thì tướng
sĩ không chịu đi nữa, vì lương thực đã hết, quân sĩ khổ nhọc mà Dương Quốc Trung và
cả gia quyến đều no đủ sung sướng, nên họ nổi lên chống lại. Dương Quốc Trung ra lệnh
đàn áp nhưng bị loạn quân giết chết. Lòng căm phẫn đối với họ Dương chưa tan, loạn
quân bức vua đem thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quý
Phi là mầm sinh đại loạn, thậm chí còn nghi ngờ Dương Quý Phi sẽ trở thành một Võ
Hậu thứ hai gây họa cho nhà Đường.
Nhà vua không còn cách nào khác, đành phải hy sinh Dương Quý Phi. Khi đó bà 38 tuổi.
An Lộc Sơn chiếm được Trường An, ra lệnh cho quân lính đốt phá kinh đô, tàn sát nhân
dân. Sử chép: "Có 36 triệu sinh linh chết trong cơn loạn ấy. Quân Phiên gặp ai cũng
chém cũng giết, thực là một cuộc đổ máu không tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung
Hoa, mà nguyên nhân sâu xa là do cái sắc của một người đàn bà dâm loạn".
Sau An Lộc Sơn bị con là Khánh Tự giết chết. Bộ tướng là Sử Tư Minh lại giết Khánh
Tự mà hàng nhà Đường. Túc Tông khôi phục sự nghiệp, rước vua cha Minh Hoàng trở
về Trường An.
Lại có giả thuyết đề cập đến việc sau khi Dương Quý Phi bị giết và chôn ở ngoài cung,
một phó tướng của An Lộc Sơn là Mai Văn Siêu vì quá si mê Dương Quý Phi nên đã
đào mộ và hãm hiếp xác của bà, qua sự việc đó Mai Văn Siêu mắc một chứng bệnh
phong tình gọi là Dương Mai sau này (chữ Dương của Dương Quý Phi với chữ Mai của
Mai Văn Siêu), dần dà gọi thành bệnh Giang Mai
Vẻ đẹp trong thơ ca
Ngọc Hoàn có sắc đẹp được ví là "tu hoa", nghĩa là khiến hoa phải xấu hổ.
Sau khi vào cung, Ngọc Hoàn tư niệm cố hương. Ngày kia, nàng đến hoa viên thưởng
hoa giải buồn, nhìn thấy hoa Mẫu Đơn, Nguyệt Quý nở rộ, nghĩ rằng mình bị nhốt trong
cung, uổng phí thanh xuân, lòng không kềm được, buông lời than thở : "Hoa à, hoa à!
Ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào mới có được ngày ấy ?". Lời
chưa dứt lệ đã tuông rơi, nàng vừa sờ vào hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào
ngờ, nàng sờ phải là loại hoa trinh nữ (cây xấu hổ). Lúc này, có một cung nga nhìn thấy,
3
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
người cung nga đó đi đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, mọi người gọi
Dương Ngọc Hoàn là "tu hoa".
Tương truyền bà là một người khá mập mạp. Lý Bạch có ba bài Thanh bình điệu ca tụng
sắc đẹp của Ngọc Hoàn. Bài đầu tiên:Thanh bình điệu
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
Xuân phong phật hạm, lộ hoa nùng.
Nhược chi quần ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng Đao đài nguyệt hạ phùng.
Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng.
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong
Ví chăng non ngọc không nhìn thấy,
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông.
Vâ T¾c Thiªn
4
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
Xuat than
Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ , thuộc quận Tinh Châu (hiện nay là thành
phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Văn Thủy hiện là một huyện thuộc Lữ Lương Địa Khu
nằm cách Thái Nguyên 80km về phía tây nam. Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (577-635), một
thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, và là một thành viên liên
minh của Lý Uyên, người sáng lập ra nhà Đường, khi ông tiến hành chiến tranh giành
quyền Lực (chính Lý Uyên cũng thuộc một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Sơn Tây). Mẹ bà
là Dương Thị (579-670), một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc
5
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi
trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu hiện là thành phố Quảng Nguyên ,
phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800km về phía tây nam, nhưng một số
nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.
Bà được đưa vào hậu cung vua Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 638 (một thời
điểm khác có thể là: 636) và là một Tài Nhân , tức là một trong chín người thiếp cấp thứ
năm. Vua Thái Tông đặt tên cho bà là Mị , có nghĩa là "duyên dáng, xinh đẹp", và vị nữ
hoàng trẻ thường được người Trung Quốc gọi là Võ Mị Nương.
Con đường quyền lực
Năm 649, Đường Thái Tông chết, và theo thói thường đối với những người thiếp, Võ Mị
Nương phải rời cung để vào một ngôi chùa Phật giáo, nơi bà sẽ phải xuống tóc.
Không lâu sau, có lẽ là vào năm 651, bà lại được vua Cao Tông, con của Thái Tông, đưa
trở lại hoàng cung bởi vì ông đã sửng sốt trước sắc đẹp của bà khi đi cúng tế cho cha. Vợ
vua Cao Tông, hoàng hậu họ Vương , đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Võ Mị
Nương hòa nhập lại vào cung đình. Nhà vua lúc ấy đang rất sủng ái một phi tần họ Tiêu
và hoàng hậu hy vọng rằng khi có một người thiếp đẹp mới nhà vua sẽ thôi chú ý tới
người phi kia. Các nhà sử học hiện nay đang tranh cãi về câu chuyện lịch sử này, và một
số nghĩ rằng Võ Tắc Thiên trên thực tế chưa hề rời khỏi hoàng cung, và rằng có thể bà
đã có tình ái với vị thế tử (người sau này là vua Cao Tông) từ trước, khi vua Thái Tông
còn đang sống. Dù sự thực thế nào chăng nữa, vẫn chắc chắn rằng tới đầu những năm
650 Võ Tắc Thiên đã là thiếp của vua Cao Tông và bà được gọi là Chiêu Nghi , mức cao
nhất trong chín cấp bậc của những phi tần thuộc hàng thứ hai. Việc vị hoàng đế lấy một
trong những người thiếp của cha mình, và lại từng là một sư nữ như các nhà sử học
truyền thống tin tưởng là một cú sốc đối với những nhà đạo đức Khổng giáo.
Võ Tắc Thiên nhanh chóng bộc lộ tài năng của mình trong việc vận động và lập mưu
mẹo. Đầu tiên bà tống Tiêu phi cho khỏi bị ngáng đường, mục tiêu tiếp sau chính là
hoàng hậu. Năm 654, con gái của Võ Tắc Thiên bị giết. Vương Hoàng hậu bị nghi ngờ là
ở gần phòng của đứa trẻ. Bà bị nghi là đã giết nó vì ghen tuông và sau đó bị hành hình.
Truyền thuyết kể rằng Võ Tắc Thiên đã giết chính con của mình, nhưng có lẽ điều này là
do các đối thủ của bà và các nhà sử học Khổng giáo bịa ra. Ngay sau đó, bà được hoàng
đế phong làm Thần Phi , ở thứ bậc cao hơn bốn phi tần cao nhất và chỉ kém hoàng hậu.
Cuối cùng, tháng Mười Một năm 655, Vương hoàng hậu bị giáng phong và Võ Tắc
Thiên được đưa lên làm hoàng hậu. Sau đó Võ hậu giết Vương hậu cùng Tiêu phi một
cách tàn bạo - họ bị đập nát chân tay và sau đó tống vào những thùng rượu to để họ còn
sống khổ cực thêm ít ngày nữa.
Một nhà Chu xen giữ triềuđạinhàĐường
Sau khi Cao Tông bắt đầu bị giảm sút sức khỏe vì đột quỵ, từ tháng 11/ 660, bà bắt đầu
cai trị Trung Quốc từ phía sau. Thậm chí sau này bà còn có được quyền lực tuyệt đối khi
hành quyết Thượng Quan Nghi và Lý Trung vào tháng 1 năm 665, và từ đó bà ngồi sau
vị hoàng đế lúc ấy đã câm lặng để coi chầu (có lẽ bà ngồi sau một bức màn phía sau ngai
vàng) và đưa ra các quyết định. Bà cai trị dưới tên chồng và sau khi ông chết thì dưới tên
của các vị vua bù nhìn tiếp theo (con bà Hoàng đế Trung Tông và sau đó là đứa con khác
Hoàng đế Duệ Tông), chỉ thực sự chiếm hẳn quyền lực vào 10 năm 690, khi bà tuyên bố
6
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
lập ra nhà Chu, lấy tên theo tên thái ấp của cha bà và muốn sánh ngang với triều đại rực
rỡ nhà Chu trước đó thời cổ Trung Quốc mà bà coi gia đình họ Võ có nguồn gốc từ đó.
Tháng 12 năm 689, mười tháng trước khi bà chính thức lên ngôi, bà bắt triều đình đưa ra
chữ mới Chiếu , cùng với 11 chữ khác để trưng ra quyền lực tuyệt đối của bà và chọn
chữ mới này làm tên thánh của mình, sau đó nó trở thành chữ húy khi bà lên ngôi mười
tháng sau. Chữ này được tạo ra từ hai chữ có từ trước là chữ "minh" ở bên trên có nghĩa
là "ánh sáng" hay "sự sáng suốt"; chữ "không" ở dưới có nghĩa là "bầu trời". Ý nghĩa của
nó ám chỉ rằng bà giống như ánh sáng chiếu xuống từ bầu trời. Thậm chí cách đánh vần
của chữ mới này cũng giống hệt như chữ "chiếu" trong tiếng Trung Quốc. Khi lên ngôi,
bà tuyên bố mình là Hoàng đế Thánh Thần, người phụ nữ đầu tiên nắm chức "hoàng đế"
vốn đã được phát minh ra từ 900 năm trước bởi hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng.
Thêm nữa, bà là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử 2100 của triều đình Trung Quốc
được ngồi lên ngôi rồng, và điều này một lần nữa lại gây sốc cho những nhà nho đạo
Khổng.
Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi,
Váhậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai
trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị,
bà lập ra Cảnh sát mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên. Bà được hai
người sủng thần là anh em Trương Dịch Chi , và Trương Xương Tông ủng hộ. Bà lấy
lòng dân bằng cách tán thành Phật giáo nhưng trừng trị nghiêm khắc các đối thủ bên
trong gia đình hoàng gia và quý tộc. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của
bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế , một cái tên đã không
bị thay đổi cho tới tận cuối thời cai trị của bà, bà lấy luôn danh nghĩa Hoàng đế Đế quốc
Đại Châu tổ chức phong thần ở Tung Sơn.
Khi Lý Hiển chính thức trở thành thái tử, bà bắt đầu lo sợ con cháu Võ thị sau này sẽ bị
tiêu diệt khi mình qua đời nên đã gọi Lý Hiển, Vương Đán và Thái Bình Công Chúa đến
và buộc thề độc rằng không được làm hại Võ thị sau khi bà mất mặc dù bà biết sau này
Lý Hiển lên ngôi thì việc làm này cũng vô nghĩa, bà cũng nhận ra rằng Đại Châu chỉ có
mỗi mình bà và bắt đầu lơi lỏng chính trị từ tuổi 70 trở đi
Những ngày cuối đời
Ngày 20 tháng 2 năm 705, lúc này bà đã hơn tám mươi tuổi và ốm yếu, Võ hậu không
thể ngăn chặn một cuộc đảo chính giết hại hai anh em họ Trương. Quyền lực của bà
cũng kết thúc ngày hôm đó, bà buộc phải lùi bước, hoàng đế Trung Tông được tái lập,
nhà Đường lại tiếp tục từ ngày 3 tháng 3 năm 705.
Võ hậu chết chín tháng sau đó, có lẽ bà cũng được an ủi rằng cháu trai của mình Võ Tam
Tư , con người em họ, cũng tham vọng và hấp dẫn như bà, đã gắng sức nhằm trở thành
người chủ thực sự của triều đình, kiểm soát vị hoàng đế Đường Trung Tông vừa được
tái lập thông qua hoàng hậu họ Vi của ông ta, người mà Tam Tư đã có tình ý từ trước
Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà Võ Chu đã có được
một hệ thống bình đẳng xã hội về giới tốt hơn so với nhà Đường giai đoạn tiếp sau nó.
Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại
nhiều ý nghĩa: một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích
hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn trong khi cùng lúc ấy lại tiến
7
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, và cai trị bằng cách điều khiển
từ phía hậu trường.
Một tác giả nổi tiếng người Pháp là Shan Sa (tức Sơn Táp), sinh tại Bắc Kinh, đã viết
một cuốn tiểu thuyết mang tính tiểu sử tên là "Impératrice" (tên tiếng Việt là "Nữ
hoàng", do nữ dịch giả Lê Hồng Sâm dịch, sách được xuất bản tại Việt Nam vào tháng 2
năm 2007) dựa trên cuộc đời của Võ hậu.
T©y Thi
8
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
9
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
10
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
lập ra cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho
Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp
là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều
chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng
keng, cho nên gọi là hưởng điệp. Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có
11
23:29:55 a9/p9 - Lª ThÞ V©n Anh
giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt,
Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây
Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay
người ta gọi là vết chân Tây Thi. Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây
Thi gẩy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung
nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở phía nam núi Linh Nham, đó
tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa. Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô,
đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong
thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình.
Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để nuôi
cá, Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại thường cùng
với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười
dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một
nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.(Trích đoạn Đông Chu liệt quốc)
Phù Sai là một vị vua anh hùng, nhưng từ khi Tây Thi xuất hiện thì lại lơi lỏng việc
nước, bỏ bê chính sự. Tây Thi theo kế của Văn Chủng ra sức mê hoặc khiến vua Ngô
ngày đêm cùng nàng chìm đắm trong xa hoa, hưởng lạc, dần dần mất hết ý chí. Bởi chỉ
khi nước Ngô suy yếu thì Việt mới có cơ hội phục thù.
Tuy nhiên, việc Phù Sai cho Câu Tiễn về nước phần lớn đều do Tây Thi tác động. Trong
một đêm trà dư tửu hậu, Tây Thi sau khi hết lời ca ngợi Phù Sai rồi chuyển qua phỉ báng
vua của mình. Nàng khuyên Phù Sai nên tha cho Câu Tiễn vì nhìn vợ chồng ông vua này
đã ở dưới đáy bùn của sự sỉ nhục, không còn khí thế của vua chúa nữa. "Ngài đối xử tệ
bạc với họ chẳng khác nào để cho quần hùng trong thiên hạ chê cười". Sau nhiều lần suy
nghĩ, bỏ mặc ngoài tai lời can ngăn của Ngũ Tử Tư, Phù Sai thả vợ chồng Câu Tiễn và
Phạm Lãi về nước Việt. Vì vậy trong mắt người nước Ngô, Tây Thi đích thực là một yêu
cơ khuynh đảo cả triều chính, còn đối với dân nước Việt thì nàng là một nữ nhi yêu
nước, đem thân mình ra cứu nguy xã tắc nước Việt.
Hậu sự
Có nhiều thuyết nói về kết cục của Tây Thi. Có thuyết cho rằng Phạm Lãi rủ người đẹp
Tây Thi lên thuyền đi vào Ngũ Hồ, cắt đứt mọi mối quan hệ với thế giới bên ngoài, sống
cuộc đời phóng khoáng tự do, khi ca hát, khi câu cá, lúc đọc sách, mặc cho thời gian trôi
qua.
Nhưng có thuyết khác bác bỏ ý trên. Đông Chu Liệt Quốc cho rằng khi diệt được Ngô,
Câu Tiễn định mang Tây Thi về Việt nhưng vợ Câu Tiễn ghen nên bí mật sai người bắt
nàng, buộc đá vào cổ và đẩy xuống sông cho chết. Vì thế Phạm Lãi chỉ đi một mình.
La Ôn có thơ minh oan cho Tây Thi rằng:
"Nước nhà còn mất bởi cơ trời
Sao cứ Tây Thi đổ lỗi hòài ?
Tây tử nếu làm Ngô mất nước
Thì xưa Việt mất bởi tay ai ?"
Văn học
12

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét