Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Bài tập hôn nhân học kỳ

I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển. Nền kinh tế nước
ta đã có những bước đáng tự hào được nhiều nước trên thế giới đánh giá
cao. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế-xã hội, chúng ta đang phải đối
mặt với nhiều những khó khăn và thách thức nẩy sinh từ mặt trái của quá
trình phát triển kinh tế - xã hội trong đó tình trạng trẻ em lao động sớm
đang là một vấn đề gây nhiều tranh cãi ở Việt Nam. Có rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng lao động sớm ở trẻ em , trong đó có nghèo đói, sự
gia tăng dân số nhanh ở các thành phố lớn, công nghiệp hoá, đô thị hoá,
gia tăng tự do thương mại… nhưng nhân tố chủ yếu góp phần làm gia
tăng lao động trẻ em lại chính là thái độ, trách nhiệm của cha mẹ và
những người thân thích của những lao động trẻ em này.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
I/. KHÁI NIỆM :
Trẻ em :
- Theo công ước về quyền trẻ em : “ trong phạm vi của Công ước này,
trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em có qui định tuổi thành niên sớm hơn”
- Pháp luật Việt Nam chưa có các qui định thống nhất về khái niệm trẻ
em trong từng ngành luật cụ thể. Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em 2005 của Việt Nam : “trẻ em qui định trong luật này là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Theo BLDS 2005 thì trẻ em là
những người dưới 15 tuổi….
- Theo pháp luật liên bang của Hoa kỳ thì “trẻ em là người dưới 18
tuổi”
Nhìn chung mỗi nước có qui định khác nhau về độ tuổi để được coi
là trẻ em. Việc qui định độ tuổi ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào sự phát
triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ em ở mỗi quốc gia. Do đó có những
quốc gia qui định độ tuổi thành niên sớm hơn hoặc trể hơn 18 tuổi như
được xác định trong công ước về quyền trẻ em.
Tuy độ tuổi được coi là trẻ em ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng
nhìn chung trẻ em ở tất cả các quốc gia đều có các đặc điểm sau:
- Thể chất và trí tuệ chưa trưởng thành.
- Cần có sự chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội cả về
mặt pháp lý.
Trẻ em lao động sớm :
Là những trẻ em phải tự lao động để nuôi sống bản thân, gia đình. Sống
trong những điều kiện không an toàn, ngoài làm việc các em hầu như
không có hoạt động vui chơi, giải trí
II/. NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM ;
8.1. Luật Quốc Tế:
Cơ sở pháp lý: công ước về quyền trẻ em, công ước 182 ngày
17/11/2002 của ILO, công ước 138 ngày 26/6/1973.
Nội Dung:
Trẻ em có quyền được bảo vệ không phải tham gia vào quan hệ lao
động sớm để nhằm tránh ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự phát triển về tinh
thần. Vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 32 Công ước về quyền
của trẻ em: “Bảo vệ trẻ em không bị bóc lột kinh tế và không phải thực
hiện những công việc có thể gây nguy hiểm hoặc cản trở việc học hành
của trẻ, hoặc có hại cho sức khoẻ của trẻ, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển về thể lực, trí tụê, tinh thần, nhân cách hay xã hội của trẻ”. Trẻ em
có thể chất và tinh thần chưa phát triển toàn diện nên khi tham gia vào
quan hệ lao động sớm thì rất dễ tổn hại đến sức khoẻ, gây ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển bình thường của trẻ. Bên cạnh đó phải kể đến những
công việc gây hại, ảnh hưởng xấu cho sự phát triển nhân cách của trẻ nếu
như công việc đó đặt trẻ trong mối liên quan với các hoạt động tội phạm.
Nhân loại đang hướng đến việc bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột, như
Điều 19 Công ước về quyền của trẻ em đã quy định: trẻ em cần được
tránh khỏi “tất cả các vi phạm về thể xác và tinh thần, gây thương tích hay
lạm dụng, sao nhãng hay bóc lột sức lao động”, đồng thời kêu gọi tất cả
mọi người hãy chung tay xây dựng một thế giới lành mạnh cho trẻ em.
Các Điều 32, Điều 19 của Công ước quy định với nội dung như
vậy nhằm mục đích chỉ rõ các Chính Phủ, Nhà Nước cần phải bảo vệ trẻ
em khỏi bị cha mẹ, người chăm sóc hay bất cứ ai lạm dụng, buộc trẻ phải
tham gia vào quan hệ lao động sớm.
Bên cạnh đó trong khoản 1 Điều 32 đã nêu rõ một số loại hình
công việc lao động khác nhau mà trẻ em cần được phải bảo vệ để không
phải thực hiện :
+ Công việc nguy hiểm: là công việc có nguy cơ bị tai nạn cao, tổn
hại đến sức khoẻ, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bình thường của
trẻ. Đồng thời công việc đó còn gây cản trở cho việc học tập của các em
nếu công việc này phải thực hiện vào các giờ mà đáng lý ra trẻ phải ở
trường, hoặc công việc quá mệt và vất vả làm cho trẻ không thể đến
trường.
Điều 32 còn nhắc đến quyền của trẻ em là được bảo vệ không bị “
bóc lột kinh tế”.
+ Bóc lột kinh tế: tức là kiếm tiền trên sự lao động, làm việc vất vả
của trẻ. Nó bao gồm cả cách kiếm tiền mà không liên quan gì đến lao
động hay làm việc theo nghĩa thông thường của cụm từ “làm việc”, như
là sử dụng trẻ em đi ăn xin, ăn cắp, buôn bán trẻ em, trẻ em tham gia vào
các nghề mang tính nghệ thuật mà không đặt quyền lợi, lợi ích của trẻ em
lên hàng đầu thì đây cũng được coi là dạng bốc lột kinh tế.
Khác với bóc lột kinh tế, bóc lột sức lao động nó mang nghĩa hẹp
hơn:
+ Bóc lột sức lao động: tức là dùng trẻ em làm việc một cách quá
mức, quá nặng, những công việc nguy hiểm, lấy tiền mà trẻ kiếm được để
sử dụng cho mục đích bản thân.
Như vậy từ phân tích trên ta thấy luật quốc tế đã đề cập nhiều đến
vấn đề lao động của trẻ em, tuy nhiên chúng ta không thấy một định
nghĩa nào về trẻ em lao động sớm, vậy trẻ em lao động sớm là gì? Từ
cách quy định của pháp luật quốc tế chúng ta có thể rút ra cách hiểu trẻ
em lao động sớm là: trẻ em phải làm những công việc vượt quá độ tuổi
lao động quy định trong pháp luật.
- Trước khi Công ước quốc tế về quyền của trẻ em ra đời, tổ chức
lao động thế giới (ILO) đã dề ra các tiêu chuẩn về quyền của
người lao động, áp dụng một công ước về độ tuổi tối thiểu được
đi làm. Vì trong Công uớc quốc tế về quyền của trẻ em không đề
cập đến giới hạn tối thiểu cho độ tuổi đi làm cho nên các nước
phải theo những hướng dẫn trong Công ước ILO
+Công ước ILO quy định độ tuổi tối thiểu để đi làm cả ngày là 15
tuổi hoặc ở những nước nghèo không ít hơn 14 tuổi. Tuy nhiên trẻ em 13
tuổi có thể được phép đi làm những công việc nhẹ, không làm công việc
đầy đủ cả ngày những công việc này không ảnh hưởng đến sức khoẻ hay
phát tiển của trẻ và không ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ (Điều 7
công ước số 138 ngày 26/06/1973). Trong khoản 1 Điều 3 Công ước số
138 “ Đối với mọi loại công việc hoặc mọi loại lao động nào mà tính chất
hoặc điều kiện tiến hành có thể có hại đến sức khoẻ, an toàn, phẩm hạnh
của trẻ em thì mức tối thiểu không được dưới 18 tuổi”. Bên cạnh đó
Khoản 3 Điều 3 cũng ghi nhận rằng: “cho phép sử dụng trẻ em làm việc
ngay từ độ tuổi 16 với điều kiện an toàn và phẩm hạnh của họ được đảm
bảo đầy đủ, phải có sự dạy dỗ thích đáng hoặc đào tạo nghề cho họ trong
ngành hoạt đồng tương ứng”.
Cuối cùng Công ước về quyền của trẻ em cũng chỉ ra những giải
pháp thực hiện mà các Nhà Nước tham gia Công ước cần phải làm để
kiểm soát lao động trẻ em đó là:
+ Đưa ra một độ tuổi tối thiểu hoặc các độ tuổi tối thiểu được phép đi
làm
+ Đưa ra các quy chế thích hợp về số giờ, và các điều kiện làm việc
+ Đưa ra hình phạt hoặc các hình thức thưởng phạt nhằm đảm bảo thực
hiện có hiệu quả Điều 32
Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh cãi về việc liệu có thực tế hay
không trong việc cấm tất cả trẻ em đi làm, đặc biệt là ở những nước đang
phát triển, nơi mà nhiều trẻ em đi làm việc giúp đỡ nuôi sống gia đình.
Như vậy ở đây đã xuất hiện sự mâu thuẫn. Trên thực tế thì lại rất phức
tạp, việc trẻ em phải đi làm việc là rất nhiều và sự tham gia vào các quan
hệ lao động sớm của các em đã phần nào giúp đỡ gia đình, tạo thu nhập
cho gia đình, làm cho cuộc sống vật chất của gia đình tăng lên rất nhiều.
Mặc dù vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn đối lập xung quanh vấn đề lao
động của trẻ em nhưng chúng ta đều nhận thấy rằng trẻ em là những
người luôn cần được bảo vệ, chăm sóc, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi
về vật chất lẫn tinh thần, để cho trẻ phát triển một các bình thường, toàn
diện.
8.2. Luật Việt Nam:
Cơ sở pháp lý :Từ Điều 119 đến Điều 122 chương XI Bộ Luật Lao
Động và các điều khác có liên quan
Nội Dung:
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam tình trạng trẻ em
bỏ học tham gia vào quan hệ lao động sớm đang là vấn đề bức xúc. Đặc
biệt là ở các vùng quê nghèo. Tuổi còn nhỏ nhưng các em đã phải tham
gia làm những công việc nặng nhọc của người lớn, hại sức khoẻ nhưng
tiền kiếm được chẳng bao nhiêu. Từ đó dẫn đến việc hoc tập của trẻ cũng
bị ảnh hưởng trầm trọng.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là xuất phát từ hoàn cảnh gia
đình nghèo khó, nhận thức của cha mẹ thấp và điều đáng quan tâm hơn
nũa là khi đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển công ngiệp hoá – hiện
đại hoá, với nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hoá đã dẫn đến thực
trạng là số trẻ em từ nông thôn, những vùng lân cận ra thành phố để kiếm
sống khá đông và tạo ra một số lượng lớn trẻ em lang thang, cơ nhỡ, kiếm
sống bằng nhiều nghề tự do và vô hình dung đã tạo ra một môi trường
thuận lợi để các chủ, những con người vô lương tâm vắt sức lao động của
các em. Sau khi tham gia vào Công ước về quyền của trẻ em, thì Việt
Nam đã có những chính sách để giúp đỡ tạo điều kiện cho trẻ em nghèo,
trẻ em lang thang. Đặc biệt Việt Nam đã có những quy định pháp luật cụ
thể về các vấn đề liên quan đến lao động trẻ em, nhằm góp phần hoàn
thiện chính sách bảo vệ trẻ em. Cụ thể trong BLLĐ(Bộ luật lao động) đã
dành riêng chương XI gồm “ những quy định riêng đối với lao động chưa
thành niên”
*Về độ tuổi:
Điều 119 BLLĐ đã quy định “ người lao động chưa thành niên là
người lao động dưới 18 tuổi”. Và khái niệm trẻ em trong BLLĐ được quy
định là “ người chưa đủ 15 tuổi” ( Điều 120). Những khái niệm quy định
về độ tuổi này cũng không khác với những quy định về độ tuổi người
chưa thành niên và trẻ em của tổ chức lao động thế giới (ILO)và tổ chức
giáo dục- khoa học- văn hoá của Liên Hiệp Quốc UNESCO. Bên cạnh đó
do quán triệt mục đích, chủ trương của Nhà Nước nên chương XI cũng
đưa ra quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động chưa thành niên
và trẻ em gồm:
+ Nghiêm cấm lam dụng sức lao động của người chưa thành niên-
khoản 2 Điều 119
+ Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc trừ một số nghề và
công việc do BLĐ-TB&XH(Bộ lao động thương binh & xã hội)quy định-
Điều 120
+ Cấm sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng
nhọc nguy hiểm, hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc,
công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ theo danh mục do BLĐ-
TB&XH và Bộ Y Tế ban hành – Điều 121.Cụ thể Thông Tư 09/ TT-LĐ
ngày 13/04/1995, phần C quy định danh mục gồm 81 công việc cấm sử
dụng lao động chưa thành niên, lao động là trẻ em.
Bên cạnh đó Luật Bảo Vệ chăm Sóc và Giáo Dục Trẻ Em cũng đưa
ra quy định tương tự nghiêm cấm hành vi “lạm dụng lao động trẻ em, sử
dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất
độc hại, làm những công việc khác trái với quy dịnh của luật về lao động”
- Về thời gian, số giờ làm việc:
Điều 122 BLLĐ quy định “ người sử dụng lao động chỉ được sử
dụng người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm
trong một số ngành nghề và công việc do BLĐ-TB & XH quy định”. Đặc
biệt yêu cầu người sử dụng lao động khi thuê người lao động chưa thành
niên phải tôn trọng quy định “ thời giờ làn viiệc của người lao động chua
thành niên không quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần”- khoản 1
Điều 122.
Ngoài ra nhằm bảo vệ quyền lợi trẻ em , khoản 2 Điều 120 BLLĐ
quy định “Đối với ngành nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15
tuổi vào làm việc(do BLĐ- TB&XH quy định), học nghề, tập nghề thì việc
nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha
mẹ hoặc người đỡ đẩu”
* Về điều kiện làm việc
Điều 121 BLLĐ quy định “ nơi có sử dụng người lao động chưa
thành niên phài lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công
việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình
khi thanh tra viên có yêu cầu”. Hơn thế nữa “ Người sử dụng lao động chỉ
được sử dụng lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với
sức khoẻ để đảm bảo sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người
đó, phải có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành
niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao
động”.
- Xét về khía cạnh bảo vệ quyền trẻ em trong luật lao động không
chỉ đơn thuần cấm sử dụng trẻ em và người chưa thành niên vào
làm những việc làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, trí tuệ và nhân cách
của trẻ em mà còn quy định rằng buộc trách nhiệm đối với các đối
tượng sử dụng lao động và pháp luật cũng đã quy định rất rõ
những chế tài xử phạt vi phạm phát luật lao động. Điều 192 quy
định “ người nào có hành vi vi phạm các quy định của BLLĐ thì
tuỳ mức độ vi phạm mà bị xử phạt bằng các hình thức cảnh cáo,
phạt tiền, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép, buộc phải bồi thường,
buộc đóng cữa doanh nghiệp hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật”.
Như vậy các qui định của pháp luật Việt Nam đã qui định một cách
chi tiết, cụ thể hóa các qui định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
III. THỰC TRẠNG :
Ngày nay trên thế giới, sử dụng lao động trẻ em (LĐTE) vẫn là một hiện
tượng phổ biến và càng ngày càng phát triển. Rất nhiều trẻ em trên thế
giới phải lao động trong những điều kiện cực kỳ nguy hiểm và bị khai
thác triệt để. Theo những số liệu mới nhất của ILO, có ít nhất 250 triệu
trẻ em trong độ tuổi 5 đến 14 tham gia vào các hoạt động kinh tế, phần
lớn là ở các nước đang phát triển. Khoảng một nửa trong số này (120
triệu) làm việc chính thức.
Mức độ sử dụng, hình thức sử dụng LĐTE thay đổi từ vùng này sang
vùng khác, từ khu vực nông thôn sang khu vực thành thị. Theo một điều
tra của ILO tại 26 nước, LĐTE có rất nhiều loại khác nhau và tập trung
chủ yếu ở nông thôn và khu vực phi kết cấu. Phần lớn LĐTE là thuộc
dạng làm công.
Từ thực tế đó cho thấy tỷ lệ trẻ em lao động sớm đang ngày càng gia
tăng, đặc biệt ờ những nước đang phát triển.
Theo điều tra gấn nhất của Bộ lao động thương binh và xã hội ở hầu hết
các tỉnh thành trên nước ta hiện nay, LĐTE tập trung chủ yếu ở các lĩnh
vực sau :
a) Nông nghiệp, gồm cả lao động ở đồng ruộng để sinh sống
b) Trong những xí nghiệp hoặc xưởng nhỏ, các cơ sở tư nhân,
c) Khu vực dịch vụ như nhà hàng, quán rượu, và giúp làm việc nhà.
d) Các hoạt động kinh tế khác trên đường phố hoặc ở các khu vực
Lao động phi kết cấu.
Tỷ lệ trẻ em tham gia vào các hoạt động kinh tế ở nông thôn cao hơn
ở đô thị. Chín phần mười LĐTE ở nông thôn là làm nông nghiệp hoặc các
hoạt động tương tự. Trẻ em nông thôn phải đối phó với những rủi ro tác
động đến sức khoẻ do nghèo đói cũng như những điều kiện xấu trong lao
động nông nghiệp.
Ở các đô thị, trẻ em phần lớn làm việc trong lĩnh vực buôn bán và dịch vụ
(8,3%), sản xuất trong khu vực phi kết cấu (14,3%). Nghề nghiệp có thể
rất đa dạng như: chế biến thực phẩm, làm hàng thủ công, may mặc, phục
vụ nhà hang quán cơm, hoặc một số ngành nghề tự do khác như bán báo,
vé số, đánh giày …v.v… Rất ít gặp trẻ em lao động trong các xí nghiệp
có tổ chức. Tuy nhiên các xí nghiệp này vẫn có thể tham gia gián tiếp vào
việc sử dụng LĐTE thông qua việc thuê lại các xưởng sản xuất nhỏ thực
hiện một số công việc có sử dụng LĐTE. Với các công việc ngoài đường
phố, trẻ em có thể bị tiếp xúc với ma tuý, bạo lực, làm tiền và các loại tội
ác khác khiến sức khoẻ, tinh thần và sự phát triển tình cảm của chúng bị
huỷ hoại.
Những mối nguy hại đe doạ trẻ em thay đổi tuỳ thuộc vào loại
hình lao động và điều kiện lao động. Tuy nhiên cũng có thể kể ra một số
nguy hại chung đe doạ phần lớn trẻ em như điều kiện vệ sinh kém, không
có phương tiện bảo vệ cá nhân hoặc có nhưng không đạt yêu cầu, không
gian và thiết bị lao động không phù hợp, máy móc và công cụ lao động
cũ kỹ và hỏng hóc, những căng thẳng về thể lực, làm việc nhiều giờ và
lương thấp. Phần lớn các em này làm việc 7 ngày/ tuần và bị trả lương
thấp hơn người lớn tại đó. Trẻ em làm việc trong những nghề nguy hiểm
phải tiếp xúc với các loại hoá chất độc hại, bụi, khói và khí, các tác nhân
lý học và sinh học độc hại. Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố của Bộ
lao động thương binh và xã hội, vào tháng 12/2008 cả nước ta có 26.027
trẻ em phải tham gia vào các loại hình lao động nặng nhọc, tiếp xúc với
các hóa chật độc hại mà không có một sự bảo hộ nào từ phía người sử
dụng lao động. Hầu như các ngưỡng giới hạn cho tiếp xúc không được
tuân thủ. Một tỷ lệ rất lớn trẻ em bị tổn thương do lao động. Những chấn
thương nghề nghiệp thường gặp là bị thương do công cụ lao động, bị
nhiễm trùng mắt, viêm da, rối loạn hệ hô hấp, cảm nhiệt, ngộ độc do sử
dụng hoá chất Những đứa trẻ này còn phải chịu đựng sự mệt mỏi, khó
chịu của các bệnh không phải bệnh nghề nghiệp mà là do môi trường
sống qua chật chội, do áp lực công việc. Mặc dù những đứa trẻ này là
những nạn nhân của những bệnh tật và mất năng lực liên quan đến lao
động nhưng trong phần lớn các trường hợp, những đứa trẻ này không
được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ xứng đáng.
IV. NGUYÊN NHÂN:
Thực tế cho thấy LĐTE trong những năm tới vẫn là một vấn đề
lớn, nhức nhối của xã hội.Trong nền kinh tế thị trường ngăn cách giàu
nghèo khá rõ, nhất là khi sự khác biệt mức sống giữa khu vực nông thôn
và thành thị còn chênh lệch đáng kể, thì nguy cơ có thêm hàng ngàn trẻ
em phải lao động để kiếm sống trong thời gian tới rất khó tránh khỏi.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng lao động trẻ em phải lao
động sớm là do kinh tế khó khăn, nghèo đói. Nguyên nhân sâu xa là cơ
hội và khả năng tiếp cận của trẻ em đối với hệ thống giáo dục và dạy
nghề còn hạn chế, vì nghèo nên nhiều gia đình không đủ tiền cho con đến
trường mà cho các con đi lao động để đóp góp vào chi tiêu chung cho gia
đình .
Ngoài ra, một nguyên nhân vô cùng quan trọng góp phần khiến lao
động trẻ em ngày càng gia tăng đó là biến cố của một số gia đình: bố mẹ
bất hòa, ly hôn không quan tâm đến con cái khiến các em phải tự kiếm
tiền để lo cho mình.
Một lý do nữa cũng rất phổ biến trong xã hội ngày nay đó là hệ
thống lao động trói buộc. Lao động trói buộc là việc bị bắt buộc phải lao
động do việc vay nợ, hoặc nhận tiền trả trước và hậu quả của nó là trẻ em
làm việc hoàn toàn không có lương hoặc có nhưng mức lương rất thấp,
không có điều kiện sinh hoạt , không có điều kiện vui chơi, giải trí.
Cuối cùng, do một số bộ phận không nhỏ các chủ doanh nghiệp tư
nhân muốn tiết kiệm tư liệu sản xuất đã sử dụng nhiều lao động trẻ em
với tiền công rẻ mạt dù điều đó là trái với quy định của pháp luật.
V. HẬU QUẢ:
Hậu quả của tình trạng trẻ em lao động sớm là vô cùng nghiêm trọng. Nó
không chỉ ảnh hưởng tới chính bản thân các em mà còn ảnh hưởng tới gia
đình và toàn xã hội.
* Với chính bản thân các em :
-Về sức khỏe, thể chất:
Những trẻ em lao động sớm thường phải làm những công việc nguy
hiểm độc hại như hóa chất, khí thải công nghiệp và nặng nhọc như bốc
vác, phụ hồ gây tổn hại nghiêm trọng tới sức khỏe và có thể bị nhiễm
bệnh: ung thư, viêm phổi thường bị thiếu ăn, ăn thiếu chất, ốm yếu
cộng thêm sống trong những ngôi nhà không đảm bảo càng khiến sức
khỏe bị ảnh hưởng. Không những vậy các em còn bị bóc lột sức lao động,
làm việc quá giờ với số tiền công ít ỏi.
Ví dụ, như Ngụ Thôi Hoàng Em,16 tuổi, ở Vĩnh Long vì nhà nghèo đã
đi làm thêm ở lò gạch lấy tiền phụ giúp gia đình, trong lúc nhào đất bằng
máy, hai tay bị cuốn vào máy khiến bị cụt cả hai tay
-Về tinh thần :
Như mọi trẻ em khác, trẻ em lao động sớm cũng có những nhu cầu
được yêu thương,chăm sóc, được học hành và vui chơi giải trí. Tuy nhiên,
những nhu cầu đó của trẻ em lao động sớm thường không được đáp ứng.
Do vậy, trẻ có cảm giác bị thiệt thòi, thua kém những đứa trẻ bình
thường. Điều này làm cho các em trở nên kém tự tin, luôn cảm thấy bị coi
thường, khó khăn trong việc tự khẳng định mình và ngại tiếp xúc với
người khác. Do bị tổn thương về mặt tình cảm nên thường mắc các bệnh
trầm cảm, tự ti, mặc cảm với bản thân Do nơi ở và công việc không ổn
định và thường bị chủ quát nạt thậm chí là đánh nên các em thường mang
tâm trạng bất an, lo lắng, sợ hãi. Sự sợ hãi đó đã làm cho trẻ mất đi tính
hồn nhiên và cũng làm cho trẻ luôn sống trong trạng thái đề phòng và
nghi ngờ thiện chí của những người xung quanh.
* Đối với xã hội :
Với các trẻ em khi tham gia lao động sớm thường phải va chạm với cuộc
sống đầy phức tạp, dễ nhiễm các tệ nạn xã hội. Ma túy, trộm cắp đang
ngày càng dấn sâu vào cuộc sống của trẻ lao động sớm. Một thực tế cho
thấy những năm gần đây số lượng trẻ em vi phạm pháp luật ngày càng
tăng cao, mà tập trung chủ yếu ở những trẻ em phải lao động sớm do
nguồn thu nhập không ổn định cùng với trình độ học vấn thấp, nghe theo
sự dủ dê của bạn bè, người xấy đã dẫn đến các em có những hành vi trái
pháp luật dẫn đến sự mất trật tự, gây ra những vấn đề phức tạp cho xã
hội.
VI. TRÁCH NHIỆM CỦA BỐ MẸ VÀ NGƯỜI THÂN THÍCH ĐỐI
VỚI TRẺ EM PHẢI LAO ĐỘNG SỚM :
Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc. Bảo vệ
chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của Nhà nước, của toàn xã
hội và của mọi gia đình. Khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày
mai” đã và đang trở thành phương châm hành động của nhiều quốc gia
trên thế giới và của Việt Nam.
Việc quan tâm, chăm sóc, bồi dưỡng thế hệ trẻ ở Việt Nam được Đảng và
Nhà nước ta chú ý từ rất sớm. Đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng
đề cập tới vấn đề này, đặc biệt trong BLHN&GĐ đã có những quy định
rất cụ thể về nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái. Điều 34 BLHN&GĐ
quy định :
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của
con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể
chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công
dân có ích cho xã hội.
2. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ,
xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành
niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật,
trái đạo đức xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay trong xã hội tình trạng trẻ em phải lao động sớm
đang ngày một gia tăng. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
này nhưng nguyên nhân chủ yếu chính là thái độ của gia đình và những
người thân thích của các em. Bằng chứng là hiện nay còn rất nhiều gia
đình trong xã hội có hoàn cảnh vô cùng khó khăn nhưng bên cạnh những
thông tin hằng ngày chúng ta nghe được những tấm gương ông bố, bà mẹ
dù vất vả, nghèo khổ vẫn quyết tâm cho con học tập để thoát khỏi cái
nghèo và hằng năm đã có rất nhiều thủ khoa được vinh danh xuất thân là
con nhà nghèo thì bên cạnh đó có những gia đình do hoàn cảnh gia đình
khó khăn đã bắt con nghỉ học từ rất sớm để đi làm kiếm tiền phụ giúp gia
đình. Có tới 2/3 trẻ em (62%) trong số được điều tra cho biết tiền kiếm
được từ lao động được sử dụng góp vào chi tiêu chung của gia đình,
khoảng 19% sử dụng tiền vào chi tiêu riêng hoặc tiết kiệm riêng và chỉ có
8% sử dụng tiền lương để mua sắm đồ dùng học tập. Đáng lưu tâm là có
khoảng 4% trẻ em không nhận trực tiếp lương từ chủ sử dụng lao động vì
“họ đưa thẳng cho bố mẹ chúng em”. Không những không chăm sóc, bảo
vệ , chăm lo việc học tập giáo dục của con mà còn có những hành vi gây
tổn thương đến trẻ như không mang đủ tiền về thì đánh mắng…Lại có
những gia đình bố mẹ li hôn không quan tâm đến con cái, để tự con cái
chăm lo cho bản thân mình. Những hành động của những ông bố bà mẹ
này đã vi phạm đến quyền trẻ em và đáng bị lên án. Bên cạnh đó, sự thiếu
quan tâm của những người thân thích càng khiến tình trạng này trở nên
phổ biến hơn. Một thực tế đáng buồn là có rất nhiều người gia đình khá
giả nhưng không quan tâm đến những người em, người cháu…của mình.
Đây là lứa tuổi mà các em phải được ăn học, được vui chơi giải trí và sự
quan tâm yêu thương cũng như giáo dục và sự định hướng của gia đình
cho tương lai các em. Và vai trò của những người cha người mẹ và người
thân (ông, ba, anh, chị, em…) trong gia đình là quan trọng và rất cần
thiết. Đã đến lúc các bậc làm cha làm mẹ cần phải nhìn nhận lại trách
nhiệm của mình đối với việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con cái
để trẻ em không phải chịu những thiệt thòi về mặt thể chất cũng như tinh
thần mà hậu quả xuất phát chính từ sự thiếu quan tâm, chăm sóc, giáo dục
các em.
VII. GIẢI PHÁP :
- Nhóm giải pháp thứ nhất là gia đình và xã hội cùng có trách nhiệm
với trẻ em. Điều có tính quyết định nhất là, người làm cha, làm mẹ hơn ai
hết phải ý thức được nghĩa vụ của mình với con cái; mỗi tính toán, mỗi sự
định đoạt của cha mẹ là một định hướng cuộc đời tương lai của các con,
vì thế không vì nghèo túng, không vì bức xúc bởi đồng tiền, bát gạo mà
bắt con cái phải bỏ học, sớm dấn thân vào những công việc quá nặng
nhọc, lam lũ, đánh mất tuổi thơ trong trắng. Trong trường hợp này, về
phía Nhà nước và cộng đồng phải thông qua các chính sách tạo việc làm,
xóa đói giảm nghèo, miễn giảm học phí, viện phí, cứu trợ xã hội… để
giúp họ có thể vượt qua khốn khó.
- Nhóm giải pháp luật pháp, chính sách, quản lý: Phải nhấn mạnh hơn
nữa việc chống lạm dụng sức lao động trẻ em. Trong chương trình hành
động bảo vệ và phát triển trẻ em Việt Nam (được Chính phủ quyết định
từ thập niên cuối cùng của thế kỷ trước) và trong chỉ đạo thực hiện
chương trình này, cho đến nay hầu như mới chỉ tập trung nhiều vào bốn
loại vấn đề là sức khỏe cho mọi trẻ em; giáo dục tiểu học; chăm lo đời
sống văn hóa, tinh thần; quan tâm đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn. Một chừng mực nào đó có nói đến giáo dục trẻ em hư, phạm pháp,
nhưng chưa đề cập thỏa đáng đến việc chống lạm dụng sức lao động trẻ
em là vấn đề xuất hiện và phát triển khá nhanh trong nền kinh tế thị
trường.
Năm 1994, Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Lao động và Luật có
hiệu lực từ 01-1-1995. Điều 119 khoản 2 nói “Nghiêm cấm lạm dụng sức
lao động của người chưa thành niên”, nhưng từ đó đến nay, các cơ quan
hữu trách cũng chưa giám sát, kiểm tra, kiểm soát xem điều khoản này
được thực hiện như thế nào. Chúng tôi cho rằng, trong nền kinh tế thị
trường và trong tình hình hiện nay, phải nhấn đậm vấn đề bảo vệ và phát
triển của trẻ em, triệt để chống lạm dụng sức lao động trẻ em. Vì nếu trẻ
em lâm vào tình trạng lao động sớm, làm việc quá sức thì các mục tiêu
bảo vệ sức khỏe, giáo dục đào tạo, văn hóa tinh thần… đều khó mà thực
hiện được. Mặt khác, các cơ quan chức năng phải tổ chức nhiều đợt kiểm
tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện Điều 119 khoản 2 Bộ luật Lao động
và xử lý vi phạm một cách nghiêm khắc, khách quan.
- Nhóm giải pháp thứ ba là tuyên truyền vận động (trong đó phải quan
tâm nhiều đến khu vực nông thôn): Trong nhiều thông tin khó đến được
các vùng nông thôn xa xôi thì có thông tin về lao động và việc làm. Trong
thông tin về lao động và việc làm thì các thông tin về lạm dụng sức lao
động trẻ em và biện pháp ngăn ngừa lại càng ít ỏi và hầu như không có.
Do thiếu thông tin, nên có những gia đình cho con thôi học để ra thành
phố kiếm sống với mong muốn vừa bớt được nhân khẩu phải nuôi, vừa
đỡ đần được cha mẹ, khi xảy ra hậu quả nặng nề thì đã muộn. Thiết nghĩ,
các chương trình thời sự, chương trình vì trẻ thơ, chương trình thiếu niên
nhi đồng của đài truyền hình, đài phát thanh phải nói kỹ, nói rõ, nói theo
cách dân dã để ông bà, cha mẹ các cháu hiểu được vấn đề.
Các chương trình văn hóa, văn nghệ cũng cần đề cập sâu sắc tới vấn đề
này. Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên phải phổ biến các kiến thức thiết
thực đến các em. Các cơ quan chức năng của Nhà nước phải giới thiệu,
phổ biến, tập huấn sâu rộng Bộ luật Lao động (chương 11, mục lao động
chưa thành niên) đến mọi người dân, có lưu ý đầy đủ đến những người sử
dụng lao động nhất là các cơ sở, các hộ tư nhân sản xuất, kinh doanh.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ :
Trẻ em là những chủ nhân tương lai của đất nước, việc quan tâm, chăm
sóc , bồi dưỡng thế hệ trẻ đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm. Nhưng sẽ là không đủ nếu như chính các bậc làm cha làm mẹ và
những người thân lại vô trách nhiệm, thiếu sự quan tâm đến con em mình.
Tình trạng lao động sớm của trẻ em hiện nay cũng đã gióng lên hồi
chuông cảnh báo để các bậc làm cha làm mẹ nhìn nhận lại thái độ và

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét