Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

ôn bệnh

Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
Phương giải: Tê giác vị hàm vào huyết để thanh nhiệt, Địa
hoàng trừ bỏ tích tụ để bổ Âm, Bạch thược dồn ác huyết sinh tân huyết,
Đan bì tả bỏ chứng hoả nhiệt ở trong huyết, bài này tuy nói là thanh hoả,
mà thực thời chuyên chú về Tư âm; Dù nói là chỉ huyết mà thực là trừ bỏ
huyết ứ. ứ huyết đã trừ bỏ tân huyết sẽ sinh ra. Âm đã tư được thời hoả sẽ
tắt, đó là phương pháp trị bệnh ngay từ ở gốc vậy. Nếu Tâm hoả qua
thịnh, thời gia Hoàng cầm, Hoàng liên để tả nhiệt. Huyết ứ ở trong Hung
bộ mà đau thời gia thời gia Đại hoàng, Đào nhân để trục ứ. Phương pháp
biến hoá đó cần ở nơi y giả phải chú ý thời mới khỏi sai lầm.
TỬ TUYẾT ĐAN
Xem ở môn Thương phong
BỆNH THỬ NHIỆT
Nguyên nhân: Tiết trời mùa Hạ, khí nóng trang lan, dãi dầu ở
ngoài đường, cảm phải khí đó, gây thành thử nhiệt bệnh.
Bệnh trạng: Trong hung nghe bức bách khó chịu, thường
thường tiết tả, miệng khát tiể tiện vàng ít, mạch Sác, đó là thử nhiệt lại
kiêm cả thấp. Nếu phát sinh ố hàn thân thể nặng nề và đau đớn, sau khi
tiểu tiện xong thấy rùng mình nổi gai ốc, tay chân đều giá lạnh, đó là thử
nhiệt lại kiêm cả Phong; nếu mặt đỏ miệng khát, mồ hôi ra nhiều, trong
Tâm phiền táo, mạch Hồng Đại và Sác đó là khí thử nhiệt dồn vào bên
trong, sắp gây thành tình trạng vong Âm rất nguy.
Biện chứng: Nếu để lâu không chữa khí thử nhiệt dồn bức vào
bên trong, mồ hôi ra nhiều, chính khí hao tán, mạch Tán, Đại suyễn cấp;
Trong lúc này nhiệt cũn theo mồ hôi thoát ra, hoàn toàn thuộc hư, cũng là
một chứng hậu rất nguy. Nếu nhiệt tà hãm vào bên trong, mình nóng
nhiều, thường thưòng nói mê, con mắt lờ đờ, đó là tà đã vào Quyết âm.
Cũng có khi vì lao dịch mà sinh ra táo kết, hoả động Tâm Tỳ, gây nên
92
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
chứng Hàn, Nhiệt mãi không dứt, Suyễn ho và thổ, Nục lưỡi trắng,
miệng không khát, đầu rức như sưng lên, mắt trông chẳng tỏ, Hung-cách
phiền muộn, đó là biến sinh chứng Thử-sái. Cũng có khi vì Thử tà hãm
vào bên trong vít lấp các khiếu, mình nóng, bỗng dưng phát kinh, tau
chân giá lạnh, đại tiện không thông, đó là đã biến thành chứng Thử giản.
Phương pháp trị liệu: Bệnh Thử nhiệt đủ các chứng trạng như
đã nói ở trên, thỉnh thoảng tiết tả, miệng khát, tiểu tiện vàng hoặc ít, mạch
Sác vẫn uống bài Lục nhất tán.
Nếu ố nhiệt phát hàn thân thể nặng nề, đau nhức, tiểu tiện xong
thời rùng mình nổi gai ốc Hư mà có mồ hôi thòi uống bài “Thanh thử
ích khí”, Thực mà không có mồ hôi thời uống bài “Tân gia Hương nhu
ẩm”. Nếu mặt đỏ miệng khát, mồ hôi ra nhiều trong Tâm phiền táo, mạch
Hồng, Đại và Sác cho uống bài “Bạch hổ thang”. Nếu hư lắm, mạch
hiện ra Khổng, cho uống bài Bạch hổ gia Nhân sâm thang. Nếu Thử nhiệt
hãm vào bên trong, mồ hôi ra nhiều, chính khí bị hao tán cho uống bài
“Sinh mạch tán”. Nếu nhiệt tà hãm vào sâu, mình nóng thường thường
nói mê cho uống bài “An cung Ngưu hoàng hoàn” hoặc bài “Tử tuyết
đan”. Nếu do hoả động Tâm, Tỳ mà phát sinh chứng hàn nhiệt không rứt,
thở gấp, ho nhiều, thổ, nục huyết, mắt trông không tỏ cho uống bài
“Thanh lạc ẩm gia Hạnh nhân ý dĩ hoạt lạc phương”. Nếu các khiếu bị vít
lấp biến thành chứng Thử giản cho uống bài “Thanh doanh thang” hoặc
cho uống bài “Tử tuyết đan”.
Trong thời kỳ dưỡng bệnh nếu người bệnh khát nhiều, nên cho ăn
Tây qua để giải khát, vì Tây qua vị cam tính hàn, vốn đã có tên là Thiên
sinh Bạch hổ, công năng thanh thử nhiệt rất đáng kể. Nếu sau khi mắc
bệnh Thử nhiệt đã khỏi, rêu lưỡi còn thấy đỏ và bóng loáng, trong miệng
khô ráo đó là vì bệnh lâu ngày làm thương tới Âm, trong phép điều
93
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
dưỡng nên cho ăn, uống nhiều thứ dưỡng Âm, đại khái như Ngẫu trấp,
Thiên đông, Mạch đông, Hoa phấn đều rất nên thường dùng.
BÀI THUỐC
LỤC NHẤT TÁN
(Lưu Hà Gian)
Hoạt thạch 6 lạng Cam thảo 1
lạng
Thần sa 3 đ/c
Các vị trên cùng tán bột, mỗi lần uống 3 đ/c, hoà nước giếng uống.
Bài này có tên là Ích nguyên tán, Thiên thuỷ tán.
Chủ trị: Chữa về mùa Hạ trúng phải khí Thử nhiệt, làm thương
đến Nguyên khí, tong ngoài đều nhiệt, không còn khí lực để cử động,
phiền khát muốn uống nước, trong Tường, Vị đều khô kiệt Nó lại có
công năng làm cho sinh san được dễ dàng, hạ nhũ, chứng Kiết lỵ, lý cấp
hậu trọng đều nên dùng.
Phương giải: Con người ta, Nguyên khí hư không chống trọi
được thời chết. Tà khí thịnh mà không có gì ngăn ngừa lại cũng chết. Giờ
Thử nhiệt làm thương đến Nguyên khí, không dủ khí lực để cử động. Lúc
này nếu dùng Sam, Kỳ để bổ khí, thời tà khí sẽ nhờ đó mà thịnh thêm.
Dùng Cầm, Liên thanh nhiệt thời chính khí thêm tôn. Muốn công nhiệt
phải cho khéo, cần phải làm thế nào để cho khỏi tổn thương Nguyên khí,
muốn Bổ hư phải cho khéo, cần làm thế nào cho khỏi giúp tà khí. Vậy
cần phai tìm đến những vị có khí vị thuần tuý để làm chủ. Hoạt thạch
bâm thụ cái khí dung hoà cua Thổ, dẫn hành lệnh thanh túc cua Tây
phương, bảo trì cái hình thiên- trọc của Thu kim. Khí hàn có thể thắng
được nhiệt, vị cam không làm hại đến Tỳ, khác với Thạch cao có tính
94
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
chất ngưng trệ nó có công năng ở trên thời thanh được thuỷ- nguyên, ở
dưới thời làm thông được thuỷ đạo, rồi quét rửa cái tà cua 6 phủ theo
đường tiểu tiện mà bài tiết ra ngoài. Cam thảo bẩm thụ tính xung hoà của
loài thảo, nó điều hoà bên trong chỉ khát sinh tân, dùng nó làm Tá để điều
hộ Nguyên khí mà tả hư hoả, như vậy thời năm Tạng lại được điều hoà,
không còn vướng mắc. Như Tâm làm chủ của 5 tàng, vì khí Thử nhiệt mà
làm rối loạn bên trong , khiến cho Thần minh không yên, phai được vị
Thần sa để trấn áp, thời Thận thuỷ mới có thể hồi phục; lại dùng nước
mát để thấm nhuần, thời tà nhiệt mới có thể kíp trừ. Đến như chứng nhiệt
Lỵ khi mới phát sinh mà Lý cấp hậu trọng, dùng nó là nhờ được công
năng “hoạt khả khứ trược” của nó; dùng để chữa đàn bà sinh nở và hạ
nhũ cũng theo nguyên lý đó. Bài này ích khí mà không giúp tà, trục tà
mà không hại đến chính khí; xứng đáng với dạnh hiệu là ích nguyên, nên
cùng với hai bài Bạch hổ, Sinh mạch chia ra làm “ba chân vạc vậy”.
THANH THỬ ÍCH KHÍ THANG
(Lý Đông Viên)
Hoàng kỳ 1 đ/c Hoàng Bá 1 đ/c
Mạch môn 2 đ/c Thanh bì 1 đ/c
Bạch truật 1,5 đ/c Thăng ma 0,5 đ/c
Đương quy 0,7 đ/c Trích thảo 1
đ/c
Ngũ vị 0,,8 đ/c Thần khúc 1
đ/c
Nhân sâm 1 đ/c Trạch tả 1 đ/c
Trần bì 1 đ/c Cát căn 1 đ/c
Xương truật 1,5 đ/c Đại táo 2 quả
Sinh khương 3 lát
95
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
Chủ trị: Chữa về mùa trưởng Hạ, khí Thấp nhiệt nấu nung, tứ chi
mệt mỏi, tinh thần kém sút, mình nóng, thở gấp, Tâm phiền, tiểu tiện
vàng, khát nước, mồ hôi tự toát ra và mạch Hư
Bấy nhiêu vị hợp làm 1 thang, đun với 5 bát nước, cạn còn 2 bát,
chia uống 2 lần. Còn bã, đun thêm 1 bát nữa mà uống.
Phương giải: Khí thử lưu hành ở mùa Hạ, đến trưởng Hạ lại
kiêm cả Thấp lẫn Thử. Bài này kiêm trị cả hai chứng đó. Vì khí Thử bốc
nóng, khiến cho Biểu khí dễ tiết ra ngoài lại kiêm cả Thấp khiến Trung
khí không được bền. Dùng Hoàng kỳ làm cho vít đặc lại ở ngoài Biểu;
còn Bạch truật , Thần khúc, Cam thảo thời dùng để điều trung. Vì khí
Thử tràn lan, Phế kim bị mắc bệnh, nên dùng Nhân sâm, Ngũ vị, Mạch
môn để bổ Phế, liễm Phế và thanh Phế tức là theo cái nghĩa của Nội kinh
dạy rằng: “Giúp ích cho cơ quan bất thắng”. Hỏa thịnh thời thuỷ suy cho
nên dùng Hoàng bá, Trạch tả để thấm nhuần hoá nguyên. Tân dịch mất
miệng khát cho nên dùng vị Đương quy, Cát căn để sinh tân dịch cho Vị.
Thanh khí không thăng lên được thời dùng vị Thăng ma làm cho thăng
lên. Trọc khí không giáng xuống được, thời dùng Thanh bì, Trần bì làm
cho giáng xuống. Còn vị Bạch truật sở dĩ dùng tới nó là vì kiêm cả chứng
Thấp của mùa trưởng Hạ vậy.
Trình Ứng Mao nói: “Người ta chỉ biết có một phương pháp
thanh thử, bài này thời lại thêm cả phương diện ích khí, cái nguyên nhân
là bởi Thử thương đến khí, ích khí không gì riêng là làm cho Kim địch
được Hoả, mà phàm cái khí bốc lên, thời sẽ biến làm thành tân dịch; còn
có khí dẫn xuống thời sẽ làm thứ thuỷ ở Thận. Thuỷ khí đã đầy đủ, thời
chứng Hoả dù mạnh tợn đến đâu cũng phải lui.
TÂN GIA HƯƠNG NHU ẨM
(Ngô Cúc Thông)
96
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
Hương nhu 2 đ/c Ngân hoa 3
đ/c
Biển đậu hoa 3 đ/c Hậu phác 2 đ/c
Liên kiều 3 đ/c
Bấy nhiêu vị hợp làm 1 thang, đun với 5 bát nước cạn còn 2 bát, bỏ
bã uống 1 bát, nếu mồ hôi ra được thời thôi không uống nước sau.
Phương giải: Hương nhu có khí vị tân ôn thơm tho, nó có công
năng theo đường kinh của Phế thấu suốt ra tới Lạc; Biển đậu hoa mùi
thơm mà tính tán, lại hay bảo toàn tân dịch, sơ dĩ dùng hoa mà không
dùng hạt, vì hạt nó ngưng trệ mà không được khinh động bằng hoa; Hậu
phác có khí vị khổ ôn, có công năng tả được chứng thực- mãn; Hậu phác
là một loại bì (vỏ, da) lấy vỏ, lấy vỏ để trị bệnh ngoài da thưòi không còn
gì phạm tới Thượng tiêu hoặc Trung tiêu nữa. Còn Liên kiều, Ngân hoa là
mượn cái khí vị tân lương của nó, để đạt a ngoài Biểu của Phế kim. Toàn
thể bài này dẫn đạt ra Biểu hết thảy. Đem bài này so với bài trên; bài trên
chữa về chứng hư, lấy mồ hôi ra nhiều làm tiêu chuẩn; bài này trị về
chứng trực, lấy mồ hôi ra làm mục đích. Sự phân biệt về hư thực đó
saimột ly đi một dặm, chúng ta phải suy xét kỹ mới được.
BẠCH HỔ THANG
Xem bài ở trên môn Thương hàn)
BẠCH HỔ GIA NHÂN SÂM THANG
(Trọng Cảnh)
Thạch cao 1 lạng Tri mẫu 6
đ/c
Cam thảo 2 đ/c Ngạch mễ 5 đ/c
Nhân sâm 3 đ/c
97
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
Các vị trên đun với 5 bát nước, khi nào gạo chín là thuốc được,
uống nóng 1 bát.
Chủ trị: Chữa bệnh ở Thái dương trúng nhiệt, mồ hôi ra, ố hàn,
mình nóng và khát.
Phương giải: Mồ hôi ra, ố hàn, mình nóng, không khát là chứng
Phong. Mồ hôi ra, ố hàn, mình nóng và khát nước là trúng Hạt, Hạt là
Thử. Chứng trạng của hai bệnh này giống nhau, chỉ lấy khát hay không
khát để phân biệt. Nhưng chứng Thương hàn và chứng Phong đều có
chứng là ở lưng ố hàn, với thỉnh thoảng ố Phong và khát, cũng cho uống
bài Bạch hổ gia Nhân sâm thang. Bởi Phế chủ về khí, giờ Hoả hun nóng
lên Phế kim, thời Phế sẽ bị thương; Phế bị thương thời Vệ khí hư, Vệ khí
hư thời Biểu bất túc, do đó phát sinh chứng mồ hôi ra, mình nóng và ố
hàn. Nội kinh nói: “Tâm di nhiệt tới Phế, truyền làm chứng Cách tiêu, bị
chứng Cách tiêu thời khát ” đó đều là do Tướng hoả làm hại tới Phế mà
gây nên. Vậy ta phải chú trọng về cứu Phế và làm lui Hoả ở Phế, cho nên
dùng nó làm Quân; Tri mẫu dẫn lên trong Phế để tả hoả và thấm nhuần
thêm cho cái nguồn cuat thuỷ; Nhân sâm thời sinh tân dịch, gíp cho
Nguyên khí đã bị thương, nên dùng để làm Thần; còn Ngạch mễ, Cam
thảo thời bổ Thổ để sinh Kim, cho nên dùng để làm Tá
SINH MẠCH ẨM
(Y lục phương)
Nhân sâm 3 đ/c Mạch đông 3 đ/c
Ngũ vị 1 đ/c
Đun với 3 bát nước cạn còn 1 bát, chia uống 2 lần. Nếu mồ hôi
chưa ứt, thời lại đun 1 liều nữa, khi nào mồ hôi thật chỉ thời thôi.
Phương giải: Nội kinh nói: “Đại khí ơ trong Hung lấy Phế làm
chủ”. Khí Thử nhiệt làm thương đến Phế, Phế bị thương thưòi khí cũng bị
98
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
thương, cho nên phát sinh ra chứng hơi ngắn mỏi mệt, Suyễn và hop. Phế
chủ bì mao, Phế bị thương thưòi mất cái công năng hộ vệ Bì mao, cho
nên mồ hôi toát ra. Nhiệt làm thương đến Nguyên khí, khí bị thương thời
không sinh ra được tân dịch, cho nên miệng khát. Bài này dùng Nhân sâm
làm Quân để bổ khí, tức là bổ Phế; dùng Mạch đông làm Thần để thanh
khí tức là thanh Phế; Ngũ vị làm Tá để liễm khí tức là liễm Phế. Một
phương diện thời bổ, một phương diện thời thanh, một phương diện thời
liễm,.phương pháp như vậy thời đủ. Sở dĩ đặt tên cho nó là Sinh mạch, vì
mạch được khí thời đầy, không được khí thưòi thiếu. Đông Viên nói:
“Mùa Hạ thời uống bài Sinh mạch gia Hoàng kỳ, Cam thảo gọi là Sinh
mạch Bảo nguyên thang, khiến cho khí lực cua người ta sinh ra rất chóng,
lại ra Đương quy, Bạch thược gọi là Nhân sâm ẩm tử, để chữa về chứng
khí hư Suyễn khái, Thổ huyết, Nục huyết” đó là một lệ riêng, chứng hư
hoả có thể dùng phương pháp bổ vậy.
AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN
Xem bài trên môn Thương phong
TỬ TUYẾT ĐAN
Xem bài trên môn Thương phong
THANH LẠC ẨM
(Ngô Cúc Thông)
Hà diệp biên 2 đ/c Tiên ngân hoa 2 đ/c
Tây qua thuý y 2 đ/c Biển đậu hoa 1 đ/c
Ty qua bì 2 đ/c Tiên trúc diệp 2 đ/c
Bấy nhiêu vị hợp làm 1 thang, đun với 3 bát nước, cạn còn 1 bát,
bỏ bã, chia uống 2 lần.
Phương giải: Bài này dùng toàn những vị có công năng thanh
giải Thử nhiệt, khí vị nhẹ nhàng công hiệu rất chóng, ta không nên thấy
những vị tầm thường mà rẻ rúng.
99
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
GIA VỊ THANH LẠC ẨM
(Ngô Cúc Thông)
Hà diệp biên 2 đ/c Tiên ngân hoa 2 đ/c
Tây qua thuý y 2 đ/c Biển đậu hoa 1 đ/c
Ty qua bì 2 đ/c Tiên trúc diệp 2 đ/c
Hạnh nhân 2 đ/c Hoạt thạch mạt 3 đ/c
Dĩ nhân 2 đ/c
Các vị trên đun với 3 bát nước, cạn còn 1 bát, bỏ bã, chia làm uống
2 lần.
Phương giải: Bài này dùng nguyên bài Thanh lạc ẩm để thanh
giải Thử nhiệt, lại gia thêm vị Hạnh nhân lợi khí, Dĩ nhân, Hoạt thạch lợi
Thấp. Bệnh Thử nhiệt để lâu không chữa biến thành Thử sái, thổ huyết,
nục huyết, hàn nhiệt mãi không dứt, nên uống bài này để thanh giải. Bệnh
này do hoả dồn ngược lên huyết phận, đem so với chứng hư lao chân âm
khuy tổn khác nhau rất xa, ta không nên điều trị nhầm kẻo di hại về sau.
THANH DOANH THANG
(Ôn bệnh điều biện phương)
Tê giác 3 đ/c Nguyên sâm 3
đ/c
Sinh địa 5 đ/c Trúc diệp tâm 1 đ/c
Mạch đông 3 đ/c Đan sa 3
đ/c
Ngân hoa 3 đ/c Liên kiều 2 đ/c
Hoàng liên 2,5 đ/c
Các vị trên đun với 8 bát nước, cạn còn 3 bát, bo bã, chia uống
nóng 3 lần.
100
Nội khoa- Ngoại cảm
ÔN BỆNH
Phương giải: Dùng Tê giác, Trúc diệp, Đan sa, Hoàng liên để an
thần và thanh Tâm; Sinh địa, Ngân hoa, Liên kiều để thanh doanh trừ
nhiệt. Phàm bệnh Thử nhiệt bỏ lâu không chữa, hoặc chữa nhầm khiến
cho tà hãm vào trong Huyết phận, mình nóng không mát, thốt nhiên cứng
đờ kíp cho uống bài này để thanh cái nhiệt ở Doanh và Tâm- thần được
yên, thưòi chứng thân thể cứng đờ có thể hồi phục ngay.
BỆNH XUÂN ÔN
Nguyên nhân: Mùa Đông lạnh lẽo lại ham mê phòng dục, khiến
ho tinh khí bị hao tổn nhiều, cái tà của Phong hàn do đó mà xâm nhập
vào cơ thể, đến mùa Xuân sinh ra bệnh gọi là bệnh Xuân ôn.
Bệnh trạng: Bệnh Xuân ôn thì mình nóng, hơi ố phong hàn
nóng nhiều rét ít, hoặc chỉ nóng, không ố hàn, miệng khát, mồ hôi tự toát
ra, hoặc không khát mà ho.
Biến chứng: Nếu để lâu không chữa, tà Phong ôn hãm vào trong,
tuyền ngược lên Tâm bào, khiến cho trong Tâm bức bách và nóng, nói
năng lảm nhảm, tinh thần hôn mê.
Nếu thuận truyền vào Vị phủ, thời thành chứng Bĩ thực, đại tiện bĩ
kết, nói mê, trào nhiệt, đau ở xung quanh rốn.
Có khi vì khí Xuân ôn hoá nhiệt làm thương đến âm, miệng khát
nhiều, ố nhiệt, mặt đỏ bừng, lưỡi đỏ và phiền táo.
Phương pháp trị liệu: Xuân ôn bệnh đủ các chứng trạng như
trên, nhiệt nhiều hàn ít, hoặc chỉ nhiệt, không ố hàn mà miệng khát, mồ
hôi tự toát ra, đầu nhức, hoặc không khát mà ho cho uống bài “Tang cúc
ẩm” hoặc “Ngân kiều tán”.
Nếu Phong ôn hãm vào trong, nghịch truyền lên Tâm bào, trong
Tâm bức bách mà óng, tinh thần hôn mê, nói năng bậy bạ uống bài “An
101

Xem chi tiết: ôn bệnh


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét