3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nội dung nghiên cứu của đề tài là thực tiễn hoạt động của kiểm toán nhà nước,
ảnh hưởng của hệ thống văn bản pháp quy tới chất lượng kiểm toán của kiểm toán
nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm cả nghiên cứu những nguyên lý chung,
lý thuyết và cả thực tế về hoạt động kiểm toán nhà nước.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp tổng hợp, phân tích, logic, khái
quát hóa, hệ thống hóa, mô hình hóa,
5. Nội dung và kết cấu của đề tài
Ngoài Lời mở đầu, danh mục sơ đồ bảng biểu, danh mục các chữ viết tắt đề tài
được kết cấu thành 3 chương:
CHƯƠNG I: Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán nhà nước tron hệ
thống quản lý nhà nước.
CHƯƠNG II: Đánh giá vai trò và hiệu quả hoạt động của kiểm toán nhà
nước trong hệ thống quản lý nhà nước của Việt Nam.
CHƯƠNG III: Phương hướng nâng cao vai trò va hiệu quả hoạt động của
kiểm toán nhà nước trong hệ thống quản lý nhà nước tại Việt Nam.
Trong quá trình hoàn thiện đề tài em đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo tận
tình của GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, vì kiến thức còn ít nên đề án không tráng
khỏi những sai sót, em mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô để đề án hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Tính tất yếu của sự ra đời kiểm toán nhà nước
Đối với mỗi quốc gia do nguồn lực về kinh tế tài chính dành cho sự phát triển
đất nước đều là hữu hạn, việc sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản công quỹ là
một trong những đòi hỏi thiết yếu cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài chính nhà
nước và hiệu năng các quyết địn của các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước. Trong
điều kiện các nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật càng đòi hỏi mỗi nhà
nước cần phải có một cơ quan được pháp luật bảo đảm tính độc lập để đạt được mục
tiêu kinh tế , đặc biệt là việc sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn công quỹ, tăng
cường sự quản lý tài chính, ngăn ngừa tham nhũng , lãng phí công quỹ nhà nước.
Các cơ quan kiểm toán nhà nước ngày càng trở nên cần thiết hơn khi nhà nước đã và
đang mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực kinh tế xã hội vì vậy đòi hỏi hoạt
động của nhà nước phải tuân theo những quy định của khuôn khổ tài chính nhất định.
Trong bối cảnh hội nhập, vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế - tài chính của một quốc
gia là vấn đề sống còn bên cạnh đảm bảo an ninh quốc phòng và sự toàn vẹn lãnh thổ.
Để đảm bảo được điều đó đòi hỏi phải kiện toàn hệ thống giám sát kinh tế tài chính ở
mức độ cao coi đó là một trong những biện pháp không thể thiếu để giúp nền kinh tế
không lâm vào tình trạng mất ổn định, và đặc biệt là khủng hoảng tài chính. Trong
tuyên bố Lima cũng nêu rất rõ nguy cơ của một nền kinh tế dễ lâm vào khủng hoảng
và lãng phí các nguồn lực khi không có một cơ quan kiểm tra tài chính độc lập làm
nhiệm vụ kiểm tra và pháp hiện các bất ổn của nền kinh tế , góp phần minh bạch hóa
nền tài chính của một quốc gia.
Hoạt động kiểm toán xuất phát từ yêu cầu sử dụng hợp lệ và hợp lý các nguồn
tài chính của Nhà nước. Bởi vậy, mục tiêu cụ thể của công tác này là sử dụng xác
thực và có hiệu quả nguồn kinh phí công, phấn đấu đạt được sự quản lý kinh tế chặt
chẽ, tính hợp lệ của công tác quản lý hành chính và việc thông tin cho các cơ quan
nhà nước cũng như công luận thông qua việc công bố các báo cáo khách quan về sự
ổn định và phát triển của nền tài chính quốc gia.
Kiểm toán hiện diện như một công cụ không thể thiếu được đối với bất kỳ một
mô hình kinh tế nào, một hình thái xã hội nào và không hề bị chi phối bởi kiến trúc
thượng tầng. Vì vậy cần thiết phải thành lập cơ quan kiểm toán nhà nước để đáp ứng
3
yêu cầu của công tác kiểm tra tài chính nhà nước, cụ thể là ngân sách nhà nước. Việc
sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản công quỹ là một trong những đòi hỏi thiết
yếu đầu tiên cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài chính nhà nước và hiệu năng các
quyết định của các cơ quan có thẩm quyền.
Việc ra đời kiểm toán nhà nước của mỗi quốc gia là một tất yếu khách quan đáp
ứng sự phát triển của đất nước, đáp ứng được nhu cầu trong quản lý nguồn tài chính
công mà các cơ quan nhà nước, các đơn vị hành chinh sự nghiệp và chung nhất là
những đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước để hoạt động. Cơ quan kiểm toán nhà
nước là một công cụ để kiểm tra, kiểm soát và đánh giá hiệu quả của việc sử dụng
ngân sách và hiệu năng của quản lý.
Thực tế trên thế hoạt động kiểm tra tài chính đã hình thành từ rất sớm, kiểm
toán ra đời từ thời La Mã, thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Tuy nhiên, hoạt động
kiểm toán chỉ phát triển mạnh mẽ và mang tính phổ biến trong khoảng vài trăm năm
trở lại đây. Ở Đức, từ năm 1714, Vua Phổ là Friedrich Wilhelm I đã ra Sắc lệnh thành
lập Phòng Thẩm kế tối cao (hay Thẩm kế viện dưới thời Đế chế Đức). Ở Pháp, từ
năm 1807, dưới thời Hoàng đế Napoleon I, Toà Thẩm kế (Cour des comptes) đã được
thành lập.
Cơ quan Kiểm toán nhà nước ở mỗi quốc gia có những tên gọi khác nhau. Ví
dụ: Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp, Cơ quan Tổng Kế toán Hoa Kỳ, Cục Kiểm toán
Liên bang Nga, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và
Kiểm soát Ấn Độ; Uỷ ban Kiểm toán Nhật Bản…
1.2. Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán nhà nước
Ngày nay, việc xác định địa vị pháp lý và các chức năng cơ bản của cơ quan
kiểm toán tối cao của một quốc gia thường đối chiếu tới ‘’Tuyên bố Lima về những
chuẩn mực của kiểm tra tài chính’’. Tuyên bố này được thông qua tại Đại hội lần thứ
IX của Tổ chức INTOSAI tháng 10 năm 1997. Không chỉ soạn thảo ra những định
hướng chung, Tuyên bố Lima còn tuyển chọn và hệ thống hoá những nguyên tắc cơ
bản của kiểm tra tài chính công đã được các quốc gia ứng dụng và công nhận. Tuy
không có sự ràng buộc về mặt pháp lý trong phạm vi của từng quốc gia, nhưng có thể
thấy Tuyên bố Lima có ảnh hưởng rõ rệt đối với sự phát triển của cơ quan kiểm toán
tối cao ở mỗi quốc gia. Các chuẩn mực do Tuyên bố Lima đưa ra được xem là những
định hướng chủ đạo trong việc tổ chức một cơ quan kiểm tra tài chính hiệu quả.
4
1.2.1. Tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nước
Tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nước là tiền đề cơ bản trong việc kiểm
tra tài chính công. Các cơ quan kiểm toán tối cao chỉ có thể hoạt động một cách
khách quan và thật sự hiệu quả khi có vị trí độc lập với cơ quan bị kiểm tra và không
phải chịu những tác động từ bên ngoài. Tính độc lập của cơ quan này cần phải được
đảm bảo về mặt pháp lý, được ghi nhận bằng Hiến pháp và pháp luật.
Tính độc lập của hoạt động kiểm tra tài chính được thể hiện thông qua việc xác
nhận địa vị pháp lý của cơ quan này trong hệ thống tài chính nhà nước, quy chế bổ
nhiệm và bãi miễn các thành viên, sự độc lập về tài chính.
1.2.2. Quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan kiểm toán nhà nước
Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công tối cao, kiểm toán nhà nước phải
thực hiện 4 nhiệm vụ quan trọng:
Một là, kiểm toán nhà nước phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội về những vấn
đề có liên quan trong quá trình ra các quyết định của Quốc hội, không chỉ vì Quốc
hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp, mà còn với tư cách là cơ quan ban hành
Luật ngân sách nhà nước và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
Hai là, kiểm toán nhà nước phải báo cáo, tư vấn và giải toả trách nhiệm cho
Chính phủ, cụ thể là cho các cấp quản lý hành chính Nhà nước, các Bộ, ban, ngành
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, cũng như về tác động tài chính của những
biện pháp đề ra.
Ba là, kiểm toán nhà nước thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe đối với
bộ máy hành chính Nhà nước nhằm chống lại việc sử dụng phung phí và lạm dụng
các phương tiện tài chính của Nhà nước.
Bốn là, kiểm toán nhà nước cần thông báo công khai trước công luận về việc sử
dụng các phương tiện tài chính Nhà nước của Chính phủ và Quốc hội.
Bốn nhiệm vụ trên là biểu thị thước đo giá trị thành công của một cơ quan kiểm
toán nhà nước với tư cách là cơ quan công quyền có chức năng kiểm tra tài chính
công tối cao của Nhà nước.
Để cơ quan kiểm toán nhà nước có thể đảm nhiệm được những chức năng,
nhiệm vụ của mình trong một Nhà nước pháp quyền thì đòi hỏi 3 tiền đề cơ bản, đó
là:
Thứ nhất, tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nước với các cơ quan quyền
lực khác của Nhà nước phải được đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật:
5
- Đảm bảo tính độc lập về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động.
- Đảm bảo quyền chủ động của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc xây
dựng chương trình kế hoạch kiểm toán, mục tiêu của mỗi cuộc kiểm toán và nội dung
kiểm toán.
- Đảm bảo quyền được công khai kết quả kiểm toán trước công luận.
Thứ hai, nguyên tắc kiểm toán phải được thể chế hoá đầy đủ trong luật:
- Về nguyên tắc, cơ quan kiểm toán nhà nước phải có thẩm quyền kiểm toán tất
cả các chức năng Nhà nước có tác động đến ngân sách, không phụ thuộc vào việc
những chức năng đó được thực hiện dưới bất cứ hình thức pháp lý nào. Nếu lĩnh vực
nào đó ( như bí mật quốc gia) mà không muốn kiểm toán thì cũng phải xác định rõ
bằng luật và thông báo cho công luận biết.
- Thẩm quyền kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước phải không bị hạn chế
về thực chất. Điều đó có nghĩa là, bao gồm cả việc kiểm tra tính hợp pháp, tính tuân
thủ, tính kinh tế và tính tiết kiệm của các hoạt động kinh tế nhà nước.
Thứ ba, phải có một cá nhân hoặc cơ quan độc lập để cơ quan kiểm toán nhà
nước có thể khiếu kiện khi tính độc lập và thẩm quyền kiểm toán của mình bị xâm
phạm:
- Khi tính độc lập của mình bị xâm phạm thì con đường pháp lý mở ra đối với
cơ quan kiểm toán nhà nước là kiện lên Toà án nhân dân tối cao.
- Đối với kiểm tra tài chính, khi có vướng mắc về thẩm quyền kiểm toán thì sẽ
được giải quyết thông qua các Toà hành chính.
Ngay trong 178 nước có cơ quan kiểm toán nhà nước là thành viên của
INTOSAI, việc đáp ứng những tiền đề này rất khác nhau và chắc chắn, hiệu lực của
chúng cũng rất khác nhau.
6
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC CỦA VIỆT NAM
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước tại Việt Nam
Kiểm toán nhà nước của Việt Nam chính thức ra đời từ Nghị định 70-CP ngày
11-7-1994 về việc thanh lập cơ quan kiểm toán nhà nước. Theo nghị định này thì
kiểm toán nhà nước “giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác
nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của
các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn
thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp”.
Cũng theo Nghị định này thì kiểm toán nhà nước có một số nhiệm vụ và quyền
hạn như sau:
1- Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó. Định kỳ báo
cáo thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán lên Thủ tướng Chính phủ.
2- Cung cấp kết quả kiểm toán cho Chính phủ và cho các cơ quan Nhà nước
khác theo quy định của Chính phủ.
3- Xác nhận, đánh giá và nhận định các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết
toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung đã
đánh giá, nhận xét, xác nhận.
4- Thông qua hoạt động kiểm toán góp ý kiến với các đơn vị được kiểm toán
sửa chữa những sai sót, vi phạm để chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán của
đơn vị; kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý những vi phạm chế độ kế toán, tài
chính của Nhà nước; đề xuất với Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi, cải tiến cơ chế
quản lý tài chính, kế toán cần thiết.
5- Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm toán Nhà nước chỉ tuân theo pháp luật và
phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ đã được Nhà nước quy định; được yêu cầu đơn
vị được kiểm toán và các đơn vị có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để
thực hiện nhiệm vụ kiểm toán.
Trong trường hợp đoàn Kiểm toán hoặc Kiểm toán viên có ý kiến khác nhau thì
Kiểm toán Nhà nước xem xét và có ý kiến kết luận cuối cùng.
7
6- Quản lý các hồ sơ, tài liệu đã được kiểm toán theo quy định của Nhà nước;
giữ bí mất tài liệu, số liệu kế toán và sự hoạt động của đơn vị được kiểm toán.
7- Quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất của hệ thống tổ chức Kiểm
toán Nhà nước theo quy định của Chính phủ.
Kiểm toán nhà nước lúc mới thành lập chỉ có 4 kiểm toán chuyên ngành, đó là:
Kiểm toán ngân sách Nhà nước, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản và các chương
trình, dự án vay, nợ, viện trợ Chính phủ, kiểm toán doanh nghiệp Nhà nước, kiểm
toán chương trình đặc biệt (an ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia ), và 1 văn phòng
kiểm toán nhà nước.
Ta có thể thấy ngay được bất cập và hạn chế của Nghị định này, Chính phủ vừa
là đơn vị chủ quản, vừa là khách thể kiểm toán của kiểm toán nhà nước, điều đó
không đảm bảo tính độc lập khách quan trong hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà
nước.
Và phải đến tận năm 2005, bằng sự ra đời của Luật kiểm toán nhà nước số
37/2005/QH11 ngày 14/06/2005 Kiểm toán nhà nước đã khẳng định vai trò và vị trí
của mình là một trong những công cụ quản lý nhà nước đắc lực và hiệu quả. Luật quy
định rất rõ rang rằng: “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm
tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”.
2.2. Vai trò của kiểm toán nhà nước
Một là, kiểm toán nhà nước góp phần nâng cao tính kinh tế, hiệu quả của quản
lý và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước. Đây là một trong những vai trò trực tiếp
và quan trọng nhất của kiểm toán nhà nước. Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính. Đây là một trong những vai trò trực tiếp và
quan trọng nhất của kiểm toán nhà nước.
Hai là, kiểm toán nhàn nước góp phần nâng cao việc chấp hành và hoàn thiện
pháp luật về quản lý kinh tế, tài chính của nhà nước.
2.3. Chức năng của kiểm toán nhà nước
Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và
tài sản nhà nước. Trong đó:
8
QUỐC HỘI
Kiểm toán báo cáo tài chính là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá, xác
nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính của những đơn vị sử dụng tài
chính nhà nước làm kinh phí hoạt động. Một trong những vấn đề rất lớn hiện nay
trong quản lý nhà nước là tệ nạn tham nhũng, thất thoát tài sản công. Những người
năm giữ những vị trí cao của một đơn vị thương lợi dụng chức vụ để trục lợi, lấy tiền
của nhà nước, tiền thuế của nhân dân để làm tài sản tư. Kiểm toán báo cáo tài chính
sẽ xác minh tính đúng đắn của báo cáo quyết toán của đơn vị được kiểm toán, kiểm
tra xem đơn vị có sử dụng ngân sách được cấp đúng mục đích hay không, tài sản của
đơn vị có bị thất thoát hay không.
Kiểm toán tuân thủ là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá và xác nhận
việc tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện.
Mỗi một đơn vị hoạt động đều phải chấp hành một nội quy, quy chế mà loại hình
hoạt động của đơn vị sẽ phải tuân theo. Kiểm toán tuân thủ sẽ kiểm toán việc chấp
hành và thực hiện nội quy quy chế đó đến mức nào, lỏng lẻo hay chặt chẽ, từ đó có
thê có kiến nghị và để xuất thay đổi cho phù hợp với thực tế.
Kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính kinh tế,
hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Kiểm toán hoạt động sẽ được sử dụng trong trường hợp muốn đánh giá hiệu lực của
thông tin và hệ thống quản trị nội bộ, hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý của
đơn vị được kiểm toán. Kết quả kiểm toán sẽ được dùng để đánh giá đơn vị đó hoạt
động có hiệu quả hay không, hệ thống kiểm soát nội bộ và quản trị nội bộ của đơn vị
hoạt động hiệu quả đến đâu…
9
QUỐC HỘI
2.4. Tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước
Trước khi Luật kiểm toán nhà nước ra đời thì kiểm toán nhà nước là cơ quan
thuộc Chính phủ:
Sơ đồ 2.1: Vị trí của kiểm toán nhà nước trong bộ máy quản lý của Việt Nam
(theo Nghị định 93/2003/NĐ-CP)
Theo đó, cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước thực hiện
nhiệm vụ được giao gồm: 4 tổ chức kiểm toán nhà nước chuyên ngành (Kiểm toán
Ngân sách Nhà nước; Kiểm toán Đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình, dự án,
vay nợ, viện trợ Chính phủ; Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước; Kiểm toán Chương
trình đặc biệt: an ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia) ; Văn phòng Kiểm toán Nhà
nước; Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán bộ; Phòng Thanh tra và kiểm tra nội bộ
và 4 tổ chức kiểm toán nhà nước khu vực (kiểm toán nhà nước khu vực phía Bắc, khu
vực miền Trung, khu vực phía Nam và kiểm toán nhà nước khu vực miền Tây Nam
Bộ).
Đứng đầu KTNN là Tổng Kiểm toán Nhà nước, giúp Tổng Kiểm toán Nhà
nước phụ trách từng lĩnh vực công tác của kiểm toán nhà nước có các Phó Tổng
Kiểm toán Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước và các Phó Tổng Kiểm toán Nhà
nước do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Đứng đầu các Kiểm toán
chuyên ngành và kiểm toán nhà nước khu vực là Kiểm toán trưởng (Vụ trưởng); giúp
việc Kiểm toán trưởng có các Phó Kiểm toán trưởng. Kiểm toán trưởng và Phó Kiểm
toán trưởng do Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm.
10
QUỐC HỘI
VKSNDTCTANDTC
CHÍNH PHỦ
Bộ, CQ ngang Bộ
CQ thuộc Chính Phủ
+ Kiểm toán nhà nước
Kinh phí hoạt động của hệ thống kiểm toán nhà nước do ngân sách nhà nước
cấp. Biên chế của hệ thống kiểm toán nhà nước thuộc biên chế quản lý Nhà nước.
Tổng Kiểm toán Nhà nước xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt biên
chế và kinh phí hoạt động của hệ thống kiểm toán.
Từ khi có Luật kiểm toán nhà nước năm 2006, địa vị pháp lý của kiểm toán nhà
nước đã được nâng lên một cách rõ rệt, kiểm toán nhà nước lúc này không thuộc
Chính phủ, cũng không thuộc Quốc hội mà chỉ hoạt động tuân theo pháp luật. Điều
này là cơ sở tiền đề cho tính độc lập khách quan trong công tác kiểm toán của kiểm
toán nhà nước. Cơ cấu của kiểm toán nhà nước lúc này như sau:
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu bộ máy kiểm toán nhà nước theo Luật kiểm toán nhà nước 2006
Trong đó:
Các đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành gồm có:
- Văn phòng kiểm toán nhà nước;
- Vụ Tổ chức cán bộ;
- Vụ Tổng hợp;
- Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán;
- Vụ Pháp chế;
- Vụ Quan hệ quốc tế.
Các đơn vị kiểm toán chuyên ngành được đánh số từ I -> VII;
Các đơn vị kiểm toán khu vực gồm có:
- Kiểm toán Nhà nước khu vực I (trụ sở đặt tại Thành phố Hà Nội);
11
TỔNG
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
PHÓ TỔNG
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Kiểm toán nhà
nước chuyên ngành
Kiểm toán nhà nước
khu vực
Bộ máy điều
hành
Các đơn vị sự
nghiệp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét