Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Ngộ độc do thức ăn.pdf

Ngộ độc thức ǎn do tụ cầu .không phải là một nhiễm trùng, mà là một nhiễm độc do ngoại độc tố
đơn thuần (Enterotoxin) giống như ngộ độc Botulism. Bệnh xảy ra có khi lẻ tẻ, có khi cả một tập
thể cùng bị như một vụ dịch đã thông báo có trên 1000 học sinh đã cùng bị do ǎn sữa bột. Bệnh
xảy ra có tính đột ngột nhưng kết thúc nhanh. Bệnh nhân khỏi hoàn toàn. Cá biệt có tử vong ở
người yếu do nhiễm một lượng độc tố lớn. Tốc độ phát triển và sinh độc tố của tụ cầu phụ thuộc
vào điều kiện của môi trường. Tụ cầu phát triển chậm ở 4- 6
o
C, phát triển yếu ở 12-15
o
C, phát
triển nhanh ở 20-22
o
C và nhanh nhất ở 25-35
o
C.
Tụ cầu tương đối bền vững với nồng độ đường cao. Nồng độ đường trong bánh mứt kẹo lên tới
60% mới có thể ức chế hoàn toàn sự phát triển của tụ cầu ở nồng độ đường 33-55% tụ cầu vẫn
phát triển trong khi các vi khuẩn khác như Shigella, Salmonella bị ức chế. Với nồng độ muối lớn
hơn 12% tụ cầu ngừng phát triển.
Tụ cầu kém bền vững với nhiệt, các phương pháp chế biến thông thường đều diệt được vi khuẩn
dễ dàng, ngược lại độc tố tụ cầu chịu nhiệt rất cao, cao hơn tất cả các độc tố vi khuẩn khác.
Muốn khử độc tố tụ cầu phải đun sôi thức ǎn ít nhất 2 giờ. Các cách nấu nướng không hề làm
giảm độc lực của nó. Cho tới nay các nhóm nghiên cứu ở Mỹ (Bergdoll và Casmaun ) đã xác
định và phân chia làm 6 nhóm độc tố ruột khác nhau thông qua phản ứng huyết thanh và thực
nghiệm trên súc vật. Đó là Enterotoxin A, B, C1, C2, D, E. Nó được tổng hợp ở bề mặt tế bào
của vi khuẩn như là 1 ngoại độc tố. Ngoài đặc tính chịu nhiệt cao, độc tố tụ cầu cũng rất bền
vững với các men phân giải protein, rượu cồn, formaldehyt, cao. Phần lớn các chủng tụ cầu gây
ngộ độc thức ǎn tạo Enterotoxin A.D. Còn Enterotoxin B chỉ tìm thấy ở chủng tụ cầu gây viêm
ruột toàn thể ở trẻ em ( Staphylococcus entero colitis ).
2. Lâm sàng.
Nói chung thời gian ủ bệnh của ngộ độc do tụ cầu ngấn 1-6 giờ, trung bình là 3 giờ, đây là dấu
hiệu quan trọng để chẩn đoán phân biệt với ngộ độc do Salmonella. Thời kì phát bệnh, bệnh
nhân thấy chóng mặt buồn nôn, rồi nôn mửa dữ dội, đau bụng quặn và đi ỉa chảy, đau đầu, mạch
nhanh, nhiệt độ vẫn bình thường hoặc hơi sốt do mất nước. Bệnh sẽ khỏi hoàn toàn sau 1-2
ngày, ít khi có tử vong.
3. Dịch tễ học.
Nguồn truyền nhiễm: Nơi tồn tại chủ yếu của tụ cầu trong thiên nhiên là da và niêm mạc người,
sau đó đến bò sữa bị viêm vú. Khoảng 50% số người khỏe có mang tụ cầu gây bệnh và không
gây bệnh.
Người mang tụ cầu tập trung. nhiều nhất ở mũi, rồi đến họng, bàn tay.
Người khỏe mang khuẩn ít nguy hiểm hơn người bệnh vì người bệnh thường mang tụ cầu gây
bệnh với số lượng lớn, điều kiện lan nhiễm rất dễ dàng qua ho, hắt hơi sổ mũi. Trong phân người
lành cũng có thể có tụ cầu gây bệnh.
- Vai trò của thực phẩm:
+ Sữa và các sản phẩm từ sữa:
Người ta đã tìm thấy tụ cầu nhiều nhất ở sữa tươi (14,6%) rồi đến váng sữa và kem (6,8%). Sữa
đã tiệt khuẩn bằng phương pháp Pasteur tỉ lệ tụ cầu giảm đi rất nhiều, chỉ còn 0,66%.
+ Đồ hộp cá có dầu:
Quá trình sản xuất đồ hộp, các nguyên liệu như cá có thể bị nhiễm tụ cầu và sinh độc tố, khi vô
khuẩn đồ hộp tụ cầu bị tiêu diệt nhưng độc tố của nó vẫn giừ nguyên. Vì vậy các trường hợp ngộ
độc thức ǎn do ǎn cá hộp vẫn có thể xảy ra và khi đó nếu phân lập tìm vi khuẩn tụ cầu, sẽ không
thấy.
+ Bánh kẹo có kem sữa:
Bánh kẹo nói chung có độ đường cao trên 60% các vi khuẩn không phát triển được kể cả tụ cầu.
Các loại bánh ngọt có kem sữa thường có độ đường thấp dưới 60% tụ cầu có thể phát triển
được và sinh độc tố. Tuy vậy không chỉ riêng các sản phẩm bánh ngọt có kem sữa có thể gây
ngộ độc mà cả thức ǎn khác như thịt cá cũng là môi trường thuận lợi cho tụ cầu phát triển mà
sinh độc tố gây ngộ độc. Một điều cần chú ý là tụ cầu khi có sự cạnh tranh với các vi khuẩn khác
thì nó chỉ phát triển mà không sinh độc tố. Ngược lại ở môi trường có sự cạnh tranh yếu như
trong thức ǎn đã nấu chín kĩ thì tụ cầu phát triển và sinh độc tố khá mạnh.
4. Biện pháp phòng bệnh.
Để phòng ngừa sự lan nhiễm của tụ cầu vào thực phẩm, cần có yêu cầu kiểm tra sức khỏe với
công nhân ngành ǎn uống. Những người có bệnh về mũi họng, viêm đường hô hấp không được
tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm, nhất là thức ǎn đã nấu chín. Những người bị bệnh nhẹ như sổ
mũi hắt hơi nên cho tạm chuyển sang làm việc ở bộ phận khác không tiếp xúc trực tiếp với
thực phẩm.
Để phòng ngừa nhiễm tụ cầu cho công nhân ngành ǎn uống và sản xuất chế biến thực phẩm,
cần có những biện pháp sau:
- Đề phòng cảm lạnh.
- Tạo điều kiện vi khí hậu hợp lí nơi sản xuất như thông gió thoáng khí. Tạo điều kiện nhiệt độ và
độ ẩm ổn định. Tǎng cường các tiện nghi vệ sinh, theo dõi vệ sinh cá nhân một cách chặt chẽ
trong công nhân viên ngành ǎn uống. Thường xuyên kiểm tra vệ sinh bàn tay, rǎng miệng và các
bệnh ghẻ lở, mụn nhọt ngoài da. Bắt buộc phải dùng khẩu trang trong lúc làm việc
- Cần tổ chức khám bệnh định kì cho công nhân, nếu phát hiện có người mang tụ cầu gây bệnh
phải cho nghỉ việc và điều trị ngay bằng kháng sinh đặc hiệu. Hàng ngày cần kiểm tra tay công
nhân chế biến, những người bị viêm da mủ chỉ được tiếp tục làm việc khi được phép của cán bộ
y tế địa phương. Đối với thực phẩm nhất là thức ǎn đã nấu chín, tết nhất là được ǎn ngay nếu
không phải bảo quản lạnh ở 2-4
o
C.
Với các loại bánh ngọt có kem sữa cần thực hiện nghiêm ngặt các qui chế vệ sinh tại nơi sản
xuất và nơi bán hàng vì đây là nguyên nhân thường gặp trong các vụ ngộ độc thức ǎn ao tụ cầu
khuẩn.
NGộ ĐộC BOTULISM.
Ngộ độc Botulism là bệnh ngộ độc thịt mang tính chất cấp tính rất nặng, nó phá hủy thần kinh
trung ương và gây tử vong cao. Theo thống kê của Mayer trong 50 nǎm gần đây tỷ lệ tử vong do
ngộ độc Botulism chiếm khoảng 34,2%. ở Mỹ tỷ lệ này là 63,7%. Nói chung tỷ lệ tử vong trước
khi có kháng huyết thanh đặc hiệu là rất cao, khoảng 6ó-70%. Ngày nay tỷ lệ đã hạ xuống nhiều
nhưng với điều kiện là được tiêm sớm.
Bệnh thường xảy ra khi dùng thức ǎn dự trữ như đồ hộp, pate, xúc xích. Van Ermengern là
người đầu tiên phát hiện ngộ độc Botulism từ 1895 ở dǎm bông và ruột già của người bị chết do
ngộ độc thịt. Sau này Konstansov đã phân lập được vi khuẩn ở cá và người ta xếp nó vào họ
Clostridium. Vi khuẩn họ này có 5 loại ABCDE. Chúng giống nhau về hình thể, tính chất nuôi cấy
và tác dụng sinh lý của độc tố, nhưng khác nhau về tính kháng nguyên. Loại A, B, E phổ biến
nhất và có liên quan đến ngộ độc thức án. Những nǎm gần đây có thông báo về ngộ độc thức ǎn
do loại C. Bệnh thường gặp ở những nước hay dùng đồ hộp như ở Mỹ dùng rau hộp, ở Đức,
Pháp dùng dǎm bống, lạp sườn, ở Liên Xô dùng lạp sườn, cá ướp muối
1. Bệnh nguyên - bệnh sinh.
Vi khuẩn gây ngộ độc thường là Clostridium botulinum týp A, B. Nó là trực khẩn kị khí tuyệt đối,
tồn tái trong đất, phân động vật, ruột cá, từ đó vi khuẩn đột nhập vào thực phẩm, dưới ảnh
hưởng của nhiệt độ cao vi khuẩn hình thành các bào tử rất bền vững Vi khuẩn phát triển thuận
lợi ở nhiệt độ 26-28
o
C. Sức chịu đựng với nhiệt độ cao của vi khuẩn kém nhưng bào tử của nó
khá bền vững với nhiệt. ở 100
o
C bào tử chịu đựng được 6 giờ, ở 105
o
C trong 2 giờ, ở 110
o
C
trong 35 phút và 120
o
C trong 5 phút. Như vậy các phương pháp chế biến và khử khuẩn đối với
thực phẩm đều không có tác dụng đối với bào tử Cl. Botulinum. Vi khuẩn phát triển tốt ở môi
trường lỏng, sinh H
2
S và sinh hơi mùi khó chịu ở điều kiện thuận lợi trong thức ǎn, vi khuẩn tiết
ra độc tố botulotoxin một ngoại độc tố có độc lính rất cao, cao hơn hẳn các độc tố của các vi
khuẩn khác. So với độc tố uốn ván nó mạnh gấp 7 lần (liều chí tử của độc tố uốn ván là 0,250mg
và của botulotoxin là 0,035mg). Tuy vậy nó đễ bị phân hủy bởi nhiệt, chỉ cần đun thực phẩm lên
100
o
C trong 10-30 phút thì độc tố sẽ bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng độc tố này rất bền vững với
men tiêu hóa.
Về cơ chế bệnh sinh thì theo Van Ermengern ông coi , ngộ độc Botulism là một bệnh nhiễm độc
do vi khuẩn xâm nhập vào thức ǎn, phát triển và sinh độc tố. Người ǎn phải thức ǎn có độc tố sẽ
bị nhiễm độc. Còn vi khuẩn không gây bệnh vì nó không sinh sản trong cơ thể người. Trong
những nǎm gần đây cũng có một số ý kiến bàn cãi người ta nót nhiều đến vai trò của các bào tử
có mặt trong thức ǎn cố khả nǎng gây ngộ độc. Như vậy về cơ chế bệnh sinh của ngộ độc
Botulism vẫn đang còn là vấn đề cấn được nghiên cứu thêm. Tuy vậy cho đến nay biện pháp
phòng bệnh vẫn được công nhận là có hiệu quả, đó là đun sôi thức ǎn trước khi ǎn.
2. Lâm sàng.
Thời gian ủ bệnh của ngộ độc Botulism từ 6-24 giờ, đôi khi rút ngắn hoặc kéo dài sau vài ngày
tùy theo lượng độc tố đưa vào. Dấu hiệu lâm sàng chủ yếu là liệt thần kinh do tổn thương thần
kinh trung ương và hành tủy. Sớm nhất là liệt mất (thể hiện bằng song thị) liệt cơ mắt, rồi đến liệt
vòm họng, lưỡi, hầu (mất tiếng, mất phản xạ nuốt) liệt dạ dày ruột dẫn đến táo bón, chướng
bụng, giảm tiết dịch, đôi khi tiểu tiện khó.
Một dấu hiệu quan trọng thứ 2 nữa là có sự phân lý mạch và nhiệt độ. Mạch tǎng nhanh trong khi
nhiệt độ cơ thể vẫn bình thường. Bệnh thường kéo dài 4-8 ngày, nếu không được điều trị sớm,
có thể chết vào ngày thứ 3 do liệt hô hấp và tim mạch. Thuốc điều trị duy nhật là huyết thanh
kháng độc tố. Nhưng cần được chẩn đoán và điều trị sớm.
Liều điều trị 50.000 - 100.000 đơn vị tiêm tĩnh mạch từ từ, đề phòng choáng, dị ứng. Liều dự
phòng 5000- 10.000 đơn vị.
Ngoài ra bắt buộc phải rửa dạ dày ruột ngay để loại trừ bớt độc tố càng sớm càng tốt để độc tố
không thấm vào máu.
3. Dịch tễ học.
Các ổ chứa Cl.Botulinum trong thiên nhiên khǎn phổ biến. Đất là nơi tồn tại thường xuyên của vi
khuẩn và nha bào. Đất vườn, đất nghĩa trang, những nơi có nhiều vi khuẩn hiếu khí phát triển sẽ
tạo điều kiện kị khí cho Botulinum sống và phát triển. Đất ruộng được bón phân hóa học thì nha
bào Botulinum giảm đi rõ rệt. Phân người và gia súc cũng là nguồn mang vi khuẩn, trong đó phân
người ít nguy hiểm hơn. Từ phân, đất, nha bào dễ dàng xâm nhập vào thực phẩm như thịt, cá,
rau quả. Thức ǎn thường gây ngộ độc là những loại thức ǎn có điều kiện tốt cho vi khuẩn kị khí
phát triển như đồ hộp thức ǎn có khối lượng lớn như đùi lợn xông khói. ở Mỹ 69,2% ngộ độc là
do ǎn rau quả đóng hộp, ở Đức 82% là do ǎn thịt lợn xông khói và dồi bò. ở Liên Xô trước Cách
mạng Tháng mười ngộ độc Botulism thường xảy ra do ǎn cá hồng ướp muối hoặc phơi khô rồi
xông khói.
4. Các biện pháp phòng chống ngộ độc Botulism.
Làm tốt khâu ướp lạnh, nhất là thức ǎn nguội làm bằng thịt, cá đóng hộp, ướp muối, xông khói.
- Tất cả các sản phẩm thịt cá khi đã có dấu hiệu ôi thiu thì không được dùng làm thức ǎn nguội
hoặc đưa đi đóng hộp.
- Với đồ hộp, khi đã có dấu hiệu phồng phải coi là nhiễm trùng nguy hiểm (trừ khi phồng lý hóa).
Muốn phân biệt phải nuôi cấy vi khuẩn.
- Với thức ǎn khả nghi thì biện pháp tốt nhất là đun sôi lại ít nhất 1 giờ.
- Đối với cá phải lưu ý: Phân phối và sử dụng cá sau khi đánh về: Nếu cần giữ lại phải đem mổ
bỏ hết ruột mang, vây rồi rửa sạch và đưa đi ướp lạnh ngay. Tốt nhất là chế biến cá sớm ngay
khi cá còn tươi.
- Biện pháp tích cực nhất là đun sôi trước khi ǎn.
NGộ ĐộC CáC HóA CHấT BảO Vệ THựC VậT
I. Mở ĐầU
Hiện nay các thuốc trừ sâu, trừ mốc trong nông nghiệp được gọi bằng một cái tên chung là hóa
chất bảo vệ thực vật. Đó là danh từ chung để chỉ các chất hóa học được dùng để chống sâu
bệnh bảo vệ cây trồng.
Nhu cầu sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật ở nước ta ngày khoảng 30-40 ngàn tấn trong một
nǎm. Tuy nhiên, ngoài tác dụng diệt sâu bệnh, hóa chất bảo vệ thực vật cũng đã và đang gây ô
nhiễm môi trường (đất, nước, không khí) và lương thực thực phẩm. Từ đó gây nên các vụ ngộ
độc cấp tính và mãn tính cho người tiếp xúc và người sử dụng (xem bảng dưới đây).

Thời gian

Địa điểm

Số người bị
ngộ độc cấp

Tử vong

1980-1982

Bệnh viện Bạch Mai

182

38

1980-1982

Bệnh viện Việt Nam-Cu Ba

60

4

1980-1982

Bệnh viện Gia Lâm

43

7

1980-1982

Bệnh viện Hoài Đức

3

1

1980-1982

Bệnh viện Từ Liêm

29

0

1980-1982

Bệnh viện Chợ Rộy

353

34

1981

Bệnh viện Minh Hải

334

-

1982

Bệnh viện Minh Hải

319

-

1981

Bệnh việnHậu Giang

219

-

1982

Bệnh viện Hậu Giang

102

-

1987

Bệnh viện Tiền Giang

174

20

Ghi chú: Dấu (-) ghi ở cột tử vong có nghĩa là trong thông báo thống kê không ghi số liệu.
Qua điều tra thống kê ở trên, người ta cho thấy nguyên nhân ngộ độc chủ yếu là do công tác
quản lí thuốc trừ sáu không tốt. Nguyên nhân này chiếm tỉ lệ 91% (trong đó 72% là do chủ ý tự
tử, 19% do ǎn uống nhầm lẫn) và 9% là do công tác phòng hộ lao động không chu đáo hoặc do
ǎn uống.
Con đường gây nhiễm độc chủ yếu là qua ǎn uống (tiêu hóa) chiếm 97,3%. Qua da và hô hấp chỉ
chiến 1,9% và 0,8% . Thuốc gây độc chủ yếu là Wolfatox (77,3%) sau đó là 666 (14,7%) và DDT
(8%). Đối tượng bị nhiễm độc chủ yếu là nông dân tuổi lao động:
II. PHÂN LOạI
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
A. Phân loại theo dốc tính (dựa vào LD 50)
Chia làm 3 loại:
Loại I: Cực độc:
- Fosfamidan ( CE 80%)
- Carbofenoton ( CE 80%)
- Schrodan ( CE 60%)
- Nicotin ( CE 90%)
Loại II: Độc nhiều:
- Aldrin (PDE 50%)
-Bensulfit (CE 40%)
- Sulfolot (CE 40%)
Loại III: ít độc:
- Aldrin (bột 5%)
- Clordecan (bột 10%)
- DDT (PDE 40%)
- Malation (PDE 50%)
Ghi chú: - C.E: nồng độ thể sữa.
- P.D.E: Bột huyền phù trong nước.
B. Phân loại theo mục đích sử dụng trong sản xuất.
1 Thuốc diệt côn trùng gây hại.
2. Thuốc chống bệnh nấm cho côn trùng.
3. Thuốc diệt cỏ dại
4. Thuốc làm rụng lá cây .
5. Thuốc kích thích sinh trưởng.
6. Thuốc chống bệnh vi khuẩn thực vật
C. Phân loại theo cấu tạo hóa học.
Bao gồm: .
1. Các thuốc hữu cơ tổng hợp: Là loại phổ biến nhất, bao gồm lân hữu cơ, Clo hữu cơ, thủy
ngân hữu cơ, cấc dẫn xuất nitro và clo của phenol
2. Các thuốc vô cơ: như Asenit na tri, aseniat canxi, sulfat đồng (CUSO4)
Sau đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài hóa chất bảo vệ thức vật chính thường được sử dụng
nhiều ở nước ta. Đó là hai nhóm clo hữu cơ và lân hữu cơ
Nhóm clo hữu cơ: Thuộc loại này có 2 thứ thuốc hay dùng ở nước ta là DDT và 666.
+ DDT (Dicloro- Diphenyl- Tricloetan): có tác dụng diệt sâu bệnh tất, duy trì hoạt tính trong vài
tháng, nó khá bền vững trọng môi trường bên ngoài. Vào cơ thể nó tích lũy khá lâu ở các mô mỡ
và gan. Có rất nhiều công trình nghiên cứu độc tính của DDT đối với động vật máu nóng. DDT
chỉ gây ngộ độc cho người và gia súc khi qua đường tiêu hóa.
Độ nhạy cảm của súc vật đối với DDT rất khác nhau (xem bảng)

Tên súc vật

Mèo

Chuột bạch

Chuột Thỏ

Chó

thường

Liều gây chết
(mg/kg)

300

300

500

600-700

1000

Liều gây chết đối với người chưa xác định được rõ ràng, có thể nó ở mức độ trung bình khoảng
500mg/kg. Như vậy liều gây độc đến chết có thể nằm vào khoảng từ 5g đến 25g DDT cho người
trưởng thành. Do đặc tính tích lũy lâu trong cơ thể, nếu dùng DDT với liều thấp dài ngày cũng có
thể gây ngộ độc và tử vong. Chẳng hạn với mèo nếu cho ǎn dài ngày với liều DDT là 0 5mg/kg
có thể gây ngộ .độc và với liều lmg/kg có thể gây tử vong. Liều lượng này rất gần với lượng DDT
còn sót lại trong lương thực thực phẩm đã được phun DDT 5,5% (xem bảng).

Thực phẩm có phun ĐT 5,5%

Lượng ĐT còn sót lại (mg/kg)

- Táo

0,5-1

- Rau xanh

0-14,8

- Ngũ cốc

0,7-0,8

- Su hào, cải bắp, cà chua, khoai tây, hành


3,6

Như vậy, nếu người ǎn các loại lương thực thực phẩm đã được phun DDT với lượng còn sót lại
như trên và ǎn kéo dài thì có nhiều nguy cơ dẫn tới ngộ độc mãn tính. Đó là điều đáng lo ngại
buộc các nhà chức trách phải suy nghĩ và có biện pháp tích cực phòng tránh.
Nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho phép khẳng định khả nàng ngộ độc DDT ở những đứa
trẻ bú sữa mẹ. DDT được bài tiết ra ngoài không chỉ qua đường nước tiểu và phân mà còn qua
sữa mẹ . ở nước ta, đã có một số công trình nghiên cứu và cho kết quả nhận xét là: Tất cả các
bà mẹ dù có tiếp xúc hay không tiếp xúc trực tiếp với DDT đều có lượng DDT trong sữa mẹ rất
cao, vì DDT xâm nhập vào cơ thể chủ yếu qua đường tiêu hóa, cao hơn rất nhiều lần so với liều
lượng cho phép của OMS (0,05ppm), của Liên Xô (0,14ppm) và của Hungari (0,13ppm).
+ 666: Công thức C6H6CL6 (Hexacloxyclohecxan)
666 kết thành bột không hòa tan trong nước, nhưng hòa tan mạnh trong dung môi hữu cơ. Khác
với DDT, Hexacloran gây nhiễm độc mạnh ở sâu bọ và ít gây độc đối với động vật máu nóng.
Liều gây chết cho thỏ là 900 mg/kg. Hexacloran sau 1 lần dùng vẫn còn tồn tại trong cơ thể một
thời gian dài. Khi cho thỏ ǎn 1 liều 600mg/kg người ta thấy chất (độc vẫn còn tồn tại trong máu
11 ngày sau. Như vậy các hóa chất bảo vệ thực vật thuộc nhóm Clo hữu cơ bao gồm DDT và
666 đều có tính tích lũy lâu trong cơ thể và là chất gây độc đối với hệ thần kinh trung ương,
thường được tích lũy trong các mô mỡ và thải trừ rất chậm. Nó rất bền vững trong nước, đất, từ
đó gây ô nhiễm ra ngoải môi trường một cách lâu dài. Trong thực phẩm đã phát hiện thấy dư
lượng cao hóa chất bảo vệ thực vật nhóm Clo hữu cơ trong sữa, sản phẩm chế biến từ sữa, mỡ
động vật, cá, trứng Hiện nay nhiều nước đã cấm hoặc hạn chế sử dụng trong. ở nước ta DDT
và 666 không còn được sử dựng trong sản xuất nông nghiệp nữa mà chỉ còn được dùng trong
công tác phong chống dịch như diệt muỗi trong phòng chống sốt rét, chống sốt xuất huyết
Nhóm Lân hữu cơ:
Cũng có tác dụng mạnh đối với côn trùng và thực vật có hại. Hóa chất bảo vệ thực vật lân hữu
cơ thường được dùng với nồng độ thấp, thời gian tồn tại trên cây trồng ngắn và được phân hủy
rồi đào thải nhanh khỏi cây trồng. Khi phân hủy, nó thường tạo ra các sản phẩm ít độc hoặc
không độc. Đối với người và gia súc ít có khả nǎng tích lũy. Thường được đào thải nhanh sau 1-
2 tuần.
Điều đáng chú ý là hóa chất bảo vệ thực vật lân hữu cơ có tính chuyển hóa nhanh trong cơ thể
động vật có xương sống nên nó thường gây tác dụng độc lên hệ thần kinh, làm tê liệt men axetyl
cholinesteraza và gây ngộ độc cấp tính.
Trong nhóm Lân hữu cơ hiện nay thường được dùng nhiều hơn cả là Wolfatox (parathion metyl),
Malathion, Diázinon, Dimethoate (Bi 58 .)
III. BIểU HIệN LÂM SàNG CủA MộT NGộ ĐộC HóA CHấT BảO Vệ THựC VậT.
Tùy theo loại thuốc mà biểu hiện lâm sàng có khác nhau. Thường có những hội chứng sau đây:
1. Hội chứng về thần kinh.
Rối loạn thần kinh trung ương, nhức đầu, mất ngủ, giảm trí nhớ.
Rối loạn thần kinh thực vật như ra mồ hôi. ở mức độ nặng hơn có thể gây tổn thương thần kinh
ngoại biên dẫn đến liệt. Nặng hơn nữa có thể tổn thương đến não, hội chứng nhiễm độc não
thường gặp nhất là do thủy ngân hữu cơ sau đó đến lân hữu cơ và clo hữu cơ.
2. Hội chứng về tim mạch.
Co thắt mạch ngoại vi, nhiễm độc cơ tim, rối loạn nhịp tim, nặng là suy tim. Thường là do nhiễm
độc lân hữu cơ, clo hữu cơ và nicotin.
3. Hội chứng hô hấp.
Viêm đường hô hấp trên, thở khò khè, viêm phổi. Nặng hơn có thể suy hô hấp cấp, ngừng thở.
Thường là do nhiễm độc lán hữu cơ và clo hữu cơ.
4. Hội chứng tiêu hóa - gan mật.
Viêm dạ dày, viêm gan mật, co thắt đường mật. Thường là do nhiễm độc clo hữu cơ, carbamat,
thuốc vô cơ chứa Cu, S.
5. Hội chứng về máu.
Thiếu máu giảm bạch cầu, xuất huyết, thường do nhiễm độc cho, lân hữu cơ carbamat . Ngoài ra
trong máu có sự thay đổi hoạt tính của một số men như men Axetyl cholinesteza do nhiễm độc
lân hữu cơ. Ngoài ra có thể thay đổi đường máu. Tǎng nồng độ axit pyruvic trong máu.
Ngoài 5 hội chứng kể trên, nhiễm độc HCBVTV còn có thể gây tổn thương đến hệ tiết niệu, nội
tiết và tuyến giáp.
IV. BIệN PHáP Xử Lí.
- Đưa ngay nạn nhân ra khỏi khu vực bị nhiễm độc. Cởi bỏ quần áo, lau sạch thuốc còn dính lại
trên da nếu là nhiễm độc qua da. Nếu nhiễm độc qua ǎn uống phải cho rửa dạ dày ngay, để
chậm quá 2 giờ thì không còn hiệu quả nữa.
- Tiêm atropin liều cao l-2mg/1 lần, tùy theo nặng nhẹ mà tiêm tĩnh mạch, bắp, dưới da. Cứ 15-
30 phút tiêm nhắc lại cho tới khi bão hòa Atropin thì thôi ( bệnh nhân có biểu hiện mặt hồng, môi
khô, mạch nhanh).
Cho thuốc lợi niệu, thở ôxy.
- Nếu có điều kiện thì cho tiêm PAM (Pyridine-andoxim-iodo-metilat) để hồi phục lại hoạt động
của men Axetyl Cholinesteraza. Tiêm tĩnh mạch, tiêm 0, 5-1gam. Nếu chưa đỡ thì tiêm thêm 1
lần nữa. Tổng liều không quá 2 gam.
Tiên lượng nói chung còn tùy thuộc vào lượng thuốc đã ǎn uống vào.
Có 3 khả nǎng:
+ Khỏi hoàn toàn không để lại di chứng.
+ Chuyển sang mãn tính ( ít gặp hơn )
+ Tử vong ( ít gặp hơn )
V. BIệN PHáP PHòNG CHốNG.
Để chủ động đề phòng ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vặt, bảo vệ môi trường sống, đảm bảo an
toàn trong sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật cần thực hiện một số biện pháp sau:
1. Tǎng cường công tác quản lý hóa chất bảo vệ thực vật chặt chẽ của ngành nông nghiệp. Chỉ
nhập hoặc sản xuất các loại hóa chất bảo vệ thực vật có hiệu quả cao đối với sinh vật gây hại
nhưng ít độc đối với người và động vật
2. Tǎng cường giáo dục và huấn luyện người sừ dụng hóa chất bảo vệ thực vật cá các biện pháp
bảo đảm an toàn cho bản thân và người tiêu dùng: Riêng đối với các loại rau quả tươi sử dụng
ǎn ngay cần phải thực hiện nghiêm túc các biện pháp sau:
- Tôn trọng và đảm bảo thời gian cách ly qui định cho từng loại hóa chất bảo vệ thực vật trên
từng loại rau quả.
- Với rau quả nghi là có khả nǎng đã bị phun thuốc hóa chất bảo vệ thực vật cần rửa sạch, ngâm
nước nhiều lần.
- Với loại rau quả có vỏ, vẫn phải được rửa sạch rồi mới cất bỏ vỏ.
3. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành nông nghiệp với ngành y tế để kiểm tra việc phân phối, sử dụng
hóa chất bảo vệ thực vật.
4. Quản lý sức khỏe đối với những người có tiếp xúc trực tiếp .
5. Trang bị phòng hộ đầy đủ .
6. Tiến hành nghiên cứu lâu dài mức độ ô nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật ra môi trường xung
quanh.
Về phương diện vệ sinh nên chọn dùng những loại thuốc ít độc đối với người và gia súc, đồng
thời có độ bền vững kém, tích lũy ít trong cơ thể người tiêu dùng và không có khả nǎng gây ung
thư, gây đột biến gen, gây độc đối với bào thai chẳng hạn như dùng Polmetox (DMDT) thay
DDT, nó cũng có tác dụng trừ sâu bệnh như DDT nhưng không tồn dư trong LTTP. Dùng
Sumition thay Wolfatox và Thiophot, độc tính giảm 8-10 lần so với Wolfatox và giảm 40-50 lần so
với Thiophot.
Tương lai trong kĩ thuật sinh học người ta đang nghiên cứu sản xuất những loại thuốc chống sâu
bệnh từ những nguyên liệu sinh học như côn trùng, vi khuẩn, siêu vi khuẩn vừa ít nguy hiểm vừa
rẻ tiền.
ĐộC Tố NấM AFLATOXIN
I. ĐặT VấN Đề
Đã từ lâu độc tố nấm ít được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu, kể cả các nước tiên
tiến có đời sống cao. Tuy nhiên trong những nǎm 1920-1930 ở Anh và Liên Xô đã thấy xuất hiện
nhiều trường hợp ngộ độc alcaloit ở người, và gà mà chất này trong lúa mạch, lúa mì. Nǎm 1924
Shofield và cộng tác đã phát hiện một loại độc tố được sản sinh từ nấm mốc gây dịch bệnh cho
gia súc. Cũng trong thời gian này Liên Xô tìm ra bệnh bạch cầu không tǎng bạch cầu (Aleusemic)
ở một số người ǎn phải ngũ cốc bị mốc. Đến nǎm 1960 nhân một vụ dịch làm chết hàng ngàn
con gà tây con tại một quần đảo nước Anh do ǎn phải lạc thối mốc, các nhà khoa học Tây âu tiến
hành nghiên cứu và phát hiện ra độc tố Anatoxin, một độc tố được tiết ra từ nấm Aspergillus
flavus, parasiticus và fumigatus. Nǎm 1961 ở Anh, người ta đã tiến hành thực nghiệm trên chuột
cống trong, cho ǎn thức ǎn dã nhiễm mốc trong đó 20% là bột lạc thối, sau 6 tháng thấy xuất hiện
ung thư gan.
Theo thống kê của một số tác giả thì ở những nước có đời sống cao như châu âu, cùng với điều
kiện khí hậu lạnh khô thì tỉ lệ ung thư gan do Aflatoxin thấp hơn nhiều so với các nước có đời
sống thấp và khí hậu nóng ẩm như châu Phi. Robinsơn nghiên cứu trên trẻ em ấn Độ bị xơ gan,
bằng phương pháp sấc kí lớp mỏng, ông đã tìm thấy Anatoxin trong nước tiểu của những trẻ bị
xơ gan và trong sữa của những bà mẹ có con bị xơ gan. Như vậy, theo ông giữa xơ gan và
Anatoxin có một mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau.
ở Thái Lan, nǎm 1967 nhóm nghiên cứu của Shank cho thấy các mẫu lương thực thực phẩm bị
mốc thì 50-60% số mẫu đó có Aflatoxin . Đồng thời nhóm tác giả này tiến hành trên thức ǎn gia
đình (lấy mẫu lương thực thực phẩm tại các gia đình ) cũng thấy có 30-50% số mẫu có độc tố
Aflatoxin.
ở Việt Nam cho đến nay còn ít có những công thành công bố vế vấn đế này. Theo kết quả của
.Viện VSDT đã nghiên cứu trên 29381 mẫu LTTP thấy có 30 loại men mốc khác nhau, trong đó
mốc Aspergihus chiếm tỉ lệ cao nhất (5,2-80,39%) bao gồm 12 chủng loại Aspergillus khác nhau.
Trong số đó có 11 chủng có khả nǎng sinh độc tố. Nǎm 1984 theo tài liệu của Viện dinh dưỡng
quốc gia đã nghiên cứu trên 200 mẫu gạo bán ở Hà Nội thấy ở 2 mẫu có nhiều nấm Aspergillus
Flavus, một loại nấm có khả nǎng tạo Ta Aflatoxin.
Nǎm 1988, Viện dinh dưỡng đã thông báo kết quả thǎm dò Aflatoxin B1 trong lạc và sản phẩm từ
lạc như sau:
Có: 7/55 số mẫu lạc nhân có Aflatoxin B1 (13%) 2/6 mẫu xì dầu có Anatoxin (33%).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét