Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Tình hình hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Tổng công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam PVI.DOC

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
Chuyên đề được chia thành 3 phần:
Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm cháy
Chương II: Tình hình hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm
cháy tại Tổng công ty Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Tổng công ty bảo hiểm Dầu
khí Việt Nam

Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY
1.1.2 Giới thiệu chung về bảo hiểm cháy
Cho đến nay, bảo hiểm không còn là khái niệm xa lạ đối với chúng ta.
Hoạt động bảo hiểm liên tục phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài
người. Tuy nhiên, việc tìm hiểu xem bảo hiểm xuất hiện từ khi nào lại là
điều khó khăn hơn nhiều. Nhìn chung, mọi ý kiến đều cho rằng bảo hiểm có
nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại, gắn liền với sự
phát triển của lịch sử loài người.
Lịch sử loài người trước hết là lịch sử đấu tranh với thiên nhiên. Trong
quá trình đó, con người phải từng bước chinh phục và cải tạo thiên nhiên,
đồng thời cũng luôn phải chịu sự tác động của thiên nhiên, phải đương đầu
với thiên tai và gánh chịu những hậu quả do thiên tai gây ra. Do đó, một mặt
đấu tranh với thiên nhiên, mặt khác hạn chế tác hại và khắc phục hậu quả
của thiên tai luôn là nhiệm vụ cấp bách của mọi thời đại. Thông thường
người ta hạn chế bằng nhiều cách: tránh né rủi ro, tự đề phòng và tham gia
bảo hiểm. Tuy nhiên, con người dần sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung
theo cộng đồng có hiệu quả hơn rất nhiều. Đây chính là tiền đề của bảo
hiểm, nghĩa là nhiều người cùng nhau góp tiền hoặc lập ra một quỹ chung để
khi có thiên tai hay tai nạn xảy ra bất ngờ gây tổn thât thì người ta sẽ lấy từ
quỹ chung ra để bù đắp cho những người bị tai nạn bất ngờ đó.
Khi cuộc sống ngày càng phát triển, yếu tố tác động đến đời sống con
người không chỉ có thiên nhiên mà còn cả yếu tố xã hội nữa. Những tổn thất,
không chỉ do thiên nhiên mà còn do cả chiến tranh, khủng hoảng kinh tế.
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
Trong hoàn cảnh đó, vấn đề thành lập quỹ chung để bù đắp tổn thất lại tỏ ra
hữu hiệu hơn bao giờ hết. Cũng từ đó hoạt động bảo hiểm ngày càng phát
triển và tính ưu việt của nó được thể hiện ngày một rõ nét hơn.
Bảo hiểm cháy cũng như bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào khác, cũng
đều ra đời bắt nguồn từ thực tế là con người luôn luôn phải vật lộn với rủi ro.
Nhiều loại rủi ro được xuất hiện vẫn tồn tại và chi phối cuộc sống của con
người. Hơn nữa, sự phát triển của con người phần nào đã hạn chế kiểm soát
được rủi ro này nhưng lại làm tăng mức độ trầm trọng của rủi ro khác hoặc
làm phát sinh nhiều loại rủi ro mới. Chính sự đe doạ trực tiếp của rủi ro mà
bảo hiểm cháy ra đời như một tất yếu khách quan.
Vào thời trung đại rồi phục hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có hệ thống
phòng cháy nào hữu hiệu hơn hệ thống sử dụng từ thời các hoàng đế La Mã
trị vì.
Phải đến năm 1666, sau khi chứng kiến đám cháy khủng khiếp ở thủ đô
Luân Đôn, người dân Anh mới nhận thức được tầm quan trọng của của việc
thiết lập hệ thống phòng cháy-chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt
hại một cách hữu hiệu. Đám cháy lớn kéo dài bảy ngày, tám đêm bắt đầu từ
chủ nhật 2/9/1666 cho tới ngày 9/9/1666 đã để lại một tổn thất vô cùng to
lớn: thiêu hủy hoàn toàn 13.200 ngôi nhà, 87 nhà thờ trong đó có cả trụ sở
của Lloyd’s và nhà thờ Saint Paul. Mức độ nghiêm trọng của thảm họa này
đã dẫn tới sự ra đời của công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên tại nước Anh.
Vào năm 1667 văn phòng bảo hiểm cháy đầu tiên được thành lập với
tên gọi rất đơn giản “The fire office” với tiền thân là những người lính cứu
hỏa Luân Đôn. Năm 1684, Công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên ra đời lấy
tên là “Friendly Society Fire Office”, Công ty hoạt động trên nguyên tắc
tương hỗ và hệ thống chi phí cố định, người được bảo hiểm phải chịu một
phần thiệt hại xảy ra. Sau đó hàng loạt các công ty bảo hiểm cháy khác ra
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
đời ở Anh như: Amicable (1696), Sun (1710), Union (1714) và vẫn hoạt
động cho đến ngày nay. Sau công ty bảo hiểm cháy đầu tiên ở Anh, bảo
hiểm cháy mở rộng sang các nước khác trên lục địa Châu Âu. Ngay từ năm
1677 tại Hambourg (Đức) đã thành lập quỹ hỏa hoạn đầu tiên của thành phố.
Trong khoảng 200 năm ra đời và phát triển, bảo hiểm cháy đã đáp ứng
được nhu cầu khẩn thiết chống lại sức tàn phá của các vụ hỏa hoạn.
1.1.3 Sự cần thiết và vai trò của Bảo hiểm cháy
Tại Việt Nam, bảo hiểm cháy được bắt đầu thực hiện từ cuối những
năm 1989. Tuy nhiên, quá trình hoạt động và triển khai hoạt động này chỉ
đơn thuần thực hiện các chức năng kinh doanh của nó. Mãi đến năm 1993
sau khi có nghị định 100/CP, nghiệp vụ này mới thực sự phát triển ở nước
ta.
Mỗi năm nước ta xảy ra hàng nghìn vụ làm chết, bị thương hàng trăm
người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Đặc biệt số vụ cháy lớn ngày
càng gia tăng, điển hình như:
-Cháy chợ Đồng Xuân (14/7/1994) gây thiệt hại gần 140 tỷ đồng. Có
2364 hộ kinh doanh và hàng chục nghìn đại lý, khung chợ bị thiệt hại người
kinh doanh lâm vào hoàn cảnh khó khăn do mất hết hàng hóa, tiền của
không còn nơi làm việc.
-Vụ cháy xí nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu Sông Bé (1995) thiệt
hại gần 18 tỷ đồng.
-Vụ cháy xí nghiệp giày An Đình - Hải Phòng (1996) thiệt hại khoảng 1
triệu đô la.
-Vụ cháy kho xăng dầu 131 Thủy Nguyên - Hải Phòng ngày 26/6/1997
gây thiệt hại 31 tỷ đồng.
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
-Năm 1997 còn một số vụ cháy lớn như là: Vụ cháy Công ty trách
nhiệm hữu hạn Thái Bình (sản xuất giày Sông Bé) là 6,03 tỷ đồng; vụ cháy
tại xí nghiệp dược Trà Vinh gần 2 tỷ đồng.
-Những vụ cháy lớn trong năm 2000 có thể kể đến là vụ cháy Công ty
may Hải Sơn với thiệt hại là 7,5 tỷ đồng; vụ cháy Công ty Muraya Việt Nam
với thiệt hại là 6,25 tỷ đồng; vụ cháy ở Công ty TNHH Thịnh Khang với trị
giá 6,2 tỷ đồng.
Từ năm 2002 đến năm 2006, toàn quốc đã xảy ra 11.795 vụ cháy, nổ
với thiệt hại ước tính là 1.710 tỷ đồng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là số thiệt hại
đã thống kê được và trên thực tế nếu tính toán đầy đủ, thì số thiệt hại có thể
còn lớn hơn rất nhiều.
Đặc biệt trong những năm gần đây,kinh tế đất nước phát triển hơn,thu
nhập của người dân được cải thiện đáng kể.Do đó việc sử dụng Gas trong
sinh hoạt của người dân đã trở nên phổ biến.Đây là điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp,cửa hàng kinh doanh sản xuất Gas mở rộng phát triển.Tuy
nhiên đi cùng với đó là khả năng có nguy cơ tiềm ẩn xảy ra các vụ cháy nổ
Gas ngày một nhiều.Bên cạnh đó là mạng lưới điện của chung ta hiện nay đã
rất cũ kỹ,hầu hết các đường điện đều kéo trên đường.Tình trang này cũng
tiềm ẩn nguy cơ xảy ra cháy nổ cao
Trong 9 tháng đầu năm 2008, toàn quốc đã xảy ra hàng chục vụ cháy
lớn, trong đó 6 vụ cháy lớn đã gây tổn thất vượt quá 12 triệu USD.Hầu hết
các vụ cháy nổ lớn ở nước ta đều bắt nguồn từ việc chập điện và nổ khí Gas.
Tuy nhiên Hoả hoạn không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến cho con
người và tài sản mà nó còn để lại những thiệt hại và tổn thât khổng lồ cho
các doanh nghiệp. Trên thực tế sau khi Hoả hoạn xảy ra, hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệpkhông thể phát triển theo kế hoạch kinh doanh
đã đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận do nhà xưởng, máy móc
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
bị hư hại. Để tránh bị phá sản họ phải tiến hành các biện pháp khôi phục lại
sản xuất. Bên cạch việc duy trì chi trả tiền lương cho nhân công và thanh
toán các chi phí cố định như tiền thuê nhà xưởng, khấu hao, điện nước lãi
xuất ngân hàng các doanh nghiệp còn phải thuê thêm nhân viên làm việc
thêm giờ để hoàn tất đơn đặt hàng tồn đọng Rõ ràng những khám phá này
không được bồi thường theo đơn bảo hiểm cháy.
Để đáp ứng được các khoản chi phí trên, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng
các quỹ dự trữ, hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay khác,
song các phương pháp này hoàn toàn thụ động . Một biện pháp hiện nay
đang khẳng định tính ưu việt với các nhà đầu tư nước ngoài đó là tham gia
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Với loại hình này, các doanh nghiệp không
những được bồi thường tài chính cho các khoản chi phí nói trên mà còn
được bù đắp phần lợi nhuận ròng bị mất mát mà lẽ ra họ được mà không bị
tổn thương. Như vậy có thể nói rằng bảo hiểm cháy đã hạn chế tối thiểu mức
ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Bằng việc đóng góp một khoản phí nhỏ ( thường là một phần ngàn giá
trị của tài sản) người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để nguồn
vốn nhàn rỗi cho phát triển hoạt động sản xuất, bởi họ không phải trích lập
quỹ dự phòng trường hợp xẩy ra rủi ro và quan trọng hơn, bên cạnh việc
được bồi thường khi xẩy ra tổn thất họ có một tâm lý an tâm khi tiến hành
công việc kinh doanh của mình.
Chính vì vậy việc triển khai Bảo hiểm cháy là rất cần thiết
Trước hết, bảo hiểm cháy ra đời đáp ứng được nhu cầu cần được bảo vệ
của con người trước những rủi ro như cháy có thể gặp trong cuộc sống. Mặt
khác, giá trị tài sản của con người ngày càng tăng, vì vậy rủi ro hỏa hoạn có
thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống và tình trạng tài chính của
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
con người. Cho dù có lạc quan đến đâu thì con người cũng không thể thờ ơ
với những rủi ro có thể gây hậu quả nghiêm trọng như hỏa hoạn. Vì vậy bảo
hiểm cháy là sự đảm bảo tài chính chắc chắn nhất đối với tài sản của con
người.
Bảo hiểm cháy ra đời không những bảo vệ tài sản cho những người
tham gia bảo hiểm mà nó còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội được
liên tục, không bị gián đoạn
Khi tham gia bảo hiểm, các doanh nghiệp còn được các công ty bảo
hiểm tư vấn về các biện pháp phòng tránh tổn thất, tăng cường công tác
phòng cháy-chữa cháy và thực hiện chính sách quản lý rủi ro nhằm bảo đảm
an toàn cao nhất.
Bên cạnh việc đem lại lợi ích cho các cá nhân và doanh nghiệp, bảo
hiểm cháy còn góp phần vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội.
Bởi vì thông qua việc hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện các biện
pháp an toàn, các công ty bảo hiểm đã góp phần hạn chế những tổn thất,
giúp khách hàng có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh như
mong muốn. Mặt khác, một phần không nhỏ nguồn phí bảo hiểm thu được
từ các nghiệp vụ này được các công ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách
Nhà nước để chính phủ sử dụng vào các mục đích xã hội khác.
1.2 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY
1.2.1 Một số khái niệm cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm cháy
Hợp đồng bảo hiểm là một thỏa ước được ký kết bằng văn bản giữa
một bên là công ty bảo hiểm và một bên là người được bảo hiểm, trong đó
công ty bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm trong
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
trường hợp họ phải gánh chịu những tổn thất về tài chính do các sự cố đã
được chấp nhận bởi công ty bảo hiểm, gây ra trong thời hạn hiệu lực của hợp
đồng trên cơ sở công ty bảo hiểm đã đồng ý và nhận được một khoản tiền do
người được bảo hiểm thanh toán (khoản tiền này gọi là phí bảo hiểm).
Cũng như các hợp đồng bảo hiểm khác, hợp đồng bảo hiểm cháy cũng
có chung những đặc điểm giống nhau. Song việc ra đời bản quy tắc bảo
hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt theo Quyết định số 142/TCQĐ của Bộ Tài
Chính trước kia và nay là Đơn tiêu chuẩn về bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc
biệtđã có những sửa đổi, bổ sung nhất định để phù hợp với điều kiện Việt
Nam. Theo qui tắc này, một số khái niệm được hiểu như sau:
- Cháy : là phản ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát ra ánh sáng.
- Hỏa hoạn : là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài nguồn lửa
chuyên dùng, gây thiệt hại cho tài sản và những người xung quanh.
- Thiệt hại : là sự mất mát, hủy hoại hay hư hỏng của những tài sản
được bảo hiểm tại địa điểm ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Tổn thất : là toàn bộ thiệt hại về người và tài sản bị gây ra do các
rủi ro được bảo hiểm.
- Tổn thất toàn bộ thực tế: là tài sản được bảo hiểm bị phá hủy hoàn
toàn hoặc nghiêm trọng đến mức không thể phục hồi lại trạng thái ban đầu.
- Tổn thất toàn bộ ước tính : là tài sản được bảo hiểm bị phá hủy hoặc
hư hỏng đến mức nếu sửa chữa, phục hồi thì chi phí sửa chữa, phục hồi bằng
hoặc lớn hơn số tiền bảo hiểm.
- Đơn vị rủi ro: là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với
khoảng cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác, tuy
khoảng cách gần nhất đảm bảo tối thiểu 10m nếu khoảng cách giữa các ngôi
nhà hoặc nhà kho ngoài trời bằng vật liệu không cháy và 20m đối với các
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
nhà kho ngoài trời bằng vật liệu dễ cháy. Việc xác định một đơn vị rủi ro
một cách chính xác là cơ sở xác định mức định mức độ rủi ro cũng như là cơ
sở để xác định mức phí.
- Đối tượng bảo hiểm: bao gồm các tài sản là bất động sản, động sản
(trừ phương tiện giao thông, vật nuôi cây trồng và tài sản đang trong quá
trình xây dựng lắp đặt thuộc loại hình bảo hiểm khác).
Cụ thể đối tượng bảo hiểm bao gồm:
+ Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai).
+ Máy móc thiết bị phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
+ Sản phẩm vật tư, hàng hóa dự trữ trong kho.
+ Nguyên vật liệu, sản phẩm làm dở, thành phẩm trên dây chuyền sản
xuất.
+ Các loại tài sản khác
- Giá trị bảo hiểm:
+ Giá trị bảo hiểm nhà cửa vật kiến trúc được xác định trên chi phí
nguyên vật liệu và xây lắp tài sản đó trừ khấu hao trong thời gian đã sử
dụng. Có thề dực trên thiết kế và bản dự toán, quyết toán xây dựng ban đầu
làm cơ sở hoặc xác định mới cho từng phần nền móng, sàn nhà, tường, mái,
trang trí nội thất.
+ Giá trị bảo hiểm của bất động sản khác: Máy móc thiết bị được xác
định trên hái cả thị trường chi phí vận chuyển và lắp đặt của loại máy móc
thiết bị cùng chủng loại, công suất, tính năng kỹ thuật, nơi sản xuất hoặc
tương đương trừ đi khấu hao đã sử dụng.
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Ngọc Hương
+ Giá trị bảo hiểm của vật tư hàng hóa đồ dùng trong kho, trong dây
chuyền sản xuất, trong cửa hàng, văn phòng, nhà ở được xác định bằng giá
trị bình quân của các loại hàng hóa có mặt trong thời gian bảo hiểm. Các xác
định bằng ước tính giá trị số dư bình quân hoặc số dư cao nhất và điều chỉnh
theo số dư thực tế của từng tháng hoặc từng qua trong thời gian bảo hiểm.
Nếu vật tư hàng mua, mua về để kinh doanh được bồi thường thêm lãi kinh
doanh. Lãi kinh doanh được xác định bằng tỷ lệ lãi bình quân của người
được bảo hiểm thu được đối với vật tư hàng hóa trước khi xảy ra tổn thất.
- Số tiền bảo hiểm; là số tiền người tham gia bảo hiểm đăng ký với
người bảo hiểm trên cơ sở giá trị bảo hiểm, là giới hạn bồi thường tối đa khi
tài sản được bảo hiểm tổn thất toàn bộ. Số tiền bảo hiểm do người được bảo
hiểm yêu cầu nhưng phải được sự chấp nhận của người bảo hiểm, nó có thể
bằng, thấp hơn hoặc cao hơn giá trị bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm: là khoản tiền mà người tham gia nộp cho công ty bảo
hiểm để bảo hiểm cho những rủi ro mà họ tham gia. Phí bảo hiểm chính là
giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Do vậy, việc tính toán mức phí vừa phù hợp
với yêu cầu của khách hàng, vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi
không phải là đơn giản. Trước khi đưa ra mức phí, công ty bảo hiểm cần cân
nhắc kỹ vì đây là một trong những yếu tố cơ bản để cạnh tranh. Phí bảo hiểm
được tính theo tỷ lệ phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí tính riêng cho từng loại rủi ro.
Đối với rủi ro hỏa hoạn việc định phí dựa trên các yếu tố sau:
+ Ngành nghề kinh doanh chính của người được bảo hiểm khi sử dụng
những tài sản được bảo hiểm vào kinh doanh.
+ Vị trí địa lý của tài sản.
+ Độ bền vững của nhà xưởng vật kiến trúc.
+ Yếu tố sử dụng điện trong khu vực có tài sản được bảo hiểm.
Lê Văn Tình Bảo hiểm 47B
13

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét