Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Một số biện pháp đầy mạnh quá trình cổ phần hoá DNNN

Đề án kinh tế chính trị
1.3.1. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc là gì?
1.3.1.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc.
Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ phần. Cụm
từ cổ phần đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động
nhân dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp,
công ty hợp danh.
Vậy Cổ phần hoá là gì? Cổ phần hoá là quá trình chuyển Doanh
nghiệp nhà nớc từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nớc thành lập doanh
nghiệp có nhiều chủ sở hữu .
Ngời chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông tự do bầu chọn ra Hội
đồng quản trị là ngời đại diện chính thức cho mình.
1.3.1.2. Bản chất và các hình thức Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc ở
nớc ta.
Xét ở bản chất pháp lý, cổ phần hoá là biến doanh nghiệp một chủ thành
doanh nghiệp nhiều chủ tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu
chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những ng-
ời khác. Những ngời này trở thành sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ
sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Xét dới góc độ này thì cổ phần hoá dẫn
tới sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp
đợc cổ phần hoá. Bản chất của cổ phần hoá nh đã nêu ở trên không phải cũng đ-
ợc hiểu đúng trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật về cổ phần hoá.
Có quan điểm đồng nhất cổ phần hoá với t nhân hoá hay có quan điểm cho rằng
cổ phần hoá chỉ liên quân đến Doanh nghiệp nhà nớc.
Nhìn bề ngoài, cổ phần hoá là quá trình xác định lại mục tiêu phơng hớng
kinh doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần. Đánh giá lại tài sản
của doanh nghiệp, quyết định mức vốn Nhà nớc giữ cần nắm giữ và rao bán
rộng rãi phần còn lại. Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động tiền vốn,
xác lập cụ thể những ngời tham gia làm chủ, đợc chia lợi nhuận và chuyển
Doanh nghiệp nhà nớc thành Công ty cổ phần, thuộc sở hữu của tập thể cổ đông
và chuyển sang hoạt động theo Luật của doanh nghiệp.
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
Song để hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá, cần thấy rằng trong công ty cổ
phần, trên cơ sở vốn điều lệ đợc chia ra thành nhiều phần, thì quyền lợi và trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng đợc phân ra thành những đơn
vị có cơ cấu sở hữu. Sở dĩ cổ phần hoá có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của
các Doanh nghiệp nhà nớc là do qua cổ phần hoá, cơ cấu sở hữu của doanh
nghiệp đã thay đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm
đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng thay đổi theo, từ đó tạo ra một cơ cấu
động lực có chủ thể rõ ràng và hợp lực mới mạnh mẽ hơn; đồng thời chuyển
doanh nghiệp sang vận hành theo cơ chế quản lý mới, tự chủ, năng động hơn,
nhng có sự giám sát rộng rãi và chặt chẽ hơn.
Cho nên, thực chất cổ phần hoá nói chung là giải pháp tài chính và tổ
chức, dực trên chế độ cổ phần nhằm đổi mới cơ chế và cơ cấu phân chia quyền
lợi và trách nhiệm gắn chặt với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cổ phần hoá theo phơng thức hiện hành là giải pháp nhằm làm thay đổi cơ cấu
sở hữu, dẫn tới thay đổi cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm từ
chỗ chỉ có Nhà nớc nắm quyền và chịu trách nhiệm chuyển sang chia sẻ kết quả
kinh doanh, cả quyền lợi và trách nhiệm, lợi nhuận và rủi ro cho những ngời
tham gia góp vốn, do đó tạo ra động lực, trách nhiệm và hiệu quả doanh nghiệp.
Trên cơ sở mục đích của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc là nhằm
chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu sang doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu,
cổ phần hoá ở nớc ta bao gồm nhiều hình thức khác nhau:
- Giữ nguyến giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm
vốn.
- Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông.
- Cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của công ty.
- Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
Nh vậy, thực chất cổ phần hoá là làm giảm bớt vai trò trực tiếp làm chủ sở
hữu các doanh nghiệp, giảm bớt đầu t của Nhà nớc, tăng thêm nguồn vốn từ dân
c, các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nớc để tạo thêm sức mạnh kinh tế
cho doanh nghiệp.
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối u ở nớc ta trong
giai đoạn hiện nay.
Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các Doanh nghiệp nhà nớc, vấn đề cải
cách Doanh nghiệp nhà nớc từ lâu là mối quan tâm của Đảng và Nhà nớc ta. Đã
có nhiều giải pháp cải cách đợc thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990,
tức là trớc thời điểm thực hiện cổ phần hoá, Đảng và Nhà nớc ta đã triển khai
nhiều biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh (Doanh nghiệp nhà
nớc theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải pháp cải cách
Doanh nghiệp nhà nớc đợc thực hiện trớc năm 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai
trò, hiệu quả của Doanh nghiệp nhà nớc hầu nh không đợc cải thiện. Tình trạng
kém hiệu quả, thua lỗ, tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của
Doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta. Nhiều Doanh nghiệp nhà nớc đã trở thành bình
phong cho những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế, lậu thuế, buôn lậu. Có
khá nhiều ý kiến khác nhau về những kết quả hạn chế của các biện pháp cải
cách Doanh nghiệp nhà nớc đã thực hiện trớc đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy
dễ dàng đợc thừa nhận khá rộng rãi là Doanh nghiệp nhà nớc thực tế không có
chủ nhân thực sự. Nhà nớc cũng là thực thể trừu tợng. Các cán bộ, công nhân
trong Doanh nghiệp nhà nớc ít quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp nhà nớc nơi mình đang làm việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có l-
ơng ngay cả khi Doanh nghiệp nhà nớc đã bên bờ phá sản. Rõ ràng, vấn đề lợi
ích, đặc biệt là lợic ích sở hữu trong Doanh nghiệp nhà nớc chính là cội nguồn
của những căn bệnh mà chúng gặp phải.
Cải cách Doanh nghiệp nhà nớc có thể tiến hành bằng nhiều cách khác
nhau nh: bán Doanh nghiệp nhà nớc, cho thuê Doanh nghiệp nhà nớc, cải cách
cơ chế quản lý Doanh nghiệp nhà nớc Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà n ớc chỉ
là một trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp
nhà nớc. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nớc ta trong thập kỷ
vừa qua cho thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nớc ta trong
giai đoạn phát triển hiện nay.
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam bắt đầu đợc thực hiện thí
điểm thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chơng trình này là
Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990 của Hội đồng bộ trởng và sau đó đợc
thực hiện với quy mô rộng hơn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trờng đợc Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986) khởi xớng đã tạo ra những điều kiện để cải cách
triệt để hơn đối với Doanh nghiệp nhà nớc, thông qua việc cổ phần hoá chúng.
Sở dĩ cổ phần hoá đợc coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết đợc căn nguyên
của những yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà
nớc đó là vấn đề sở hữu. Những giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nớc
khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý theo hớng tăng cờng quyền tự chủ của
của Doanh nghiệp nhà nớc trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá
doanh nghiệp chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau
trong bản thân các thực thể kinh tế vĩ mô mà trớc hết là trong các doanh nghiệp.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu
của chúng, điều mà trớc đổi mới ít ai dám nghĩ đến chứ cha nói là triển khai nó.
2. Đối tợng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc là biện pháp cải cách Doanh nghiệp
nhà nớc tối u của nớc ta. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có
thể đổi mới bằng phơng thức này. Có những doanh nghiệp mà Nhà nớc cần duy
trì 100% vốn Nhà nớc. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế trên các lĩnh vực sau:
- Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và
quốc phòng : sản xuất vũ khí, đạn dợc, sản xuất thuốc nổ, sản xuất phơng tiện
phát sóng, truyền tin
- Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân,
bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực : năng lợng, dầu khí,
khai thác vàng và đá quý, xây dựng sân bay, bến cảng, đờng sắt
- Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở nh : giao thông, bu chính, viễn
thông, điện, thuỷ nông
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
- Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thờng bị thua lỗ, lãi ít
hoặc gặp rất nhiều khó khăn.
Theo nguyên tác hạch toán thơng mại thì các thành phần kinh tế tập thể, t
nhân không đầu t vào các lĩnh vực nh : vận tải đờng sắt, vận tải hàng hoá lên
miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến vùng kinh tế mới, sản xuất phơng tiện cho
ngời tàn tật, đồ chơi cho trẻ em
Để khắc phục nhợc điểm đó của cơ chế thị trờng, Nhà nớc phải tổ chức
các Doanh nghiệp nhà nớc để duy trì và phát triển các hoạt động này. Có thể
làm việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân sách Nhà nớc cho các doanh nghiệp
thua lỗ. Trong trờng hợp này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, nên
không thể coi đó là bao cấp.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trờng, không chỉ ở Việt Nam mà dù ở bất kỳ
nớc nào, sự tồn tại của Doanh nghiệp nhà nớc là một tất yếu khách quan.
Nh vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nớc cần phải đổi mới
bằng giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận doanh nghiệp. Bộ phận
doanh nghiệp ấy là gì? Căn cứ vào tình hình thực tế ở Việt Nam, Doanh nghiệp
nhà nớc đợc chọn lựa cổ phần hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây:
- Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu t
Nhà nớc.
- Có phơng án kinh doanh hiệu quả.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Nhà nớc) cũng có
thể thực hiện cổ phần hoá theo phơng thức phát hành cổ phiếu theo quy định
nhằm thu hút thêm vốn để phát triển sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên giá trị
tài sản hiện có của doanh nghiệp. Theo tinh thần nghị quyết 28/CP các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có tổng số vốn từ 300 tỷ đồng trở
xuống và có số lao động dới 1000 ngời, không kể số lao động làm hợp đồng
theo thời vụ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dễ xác định giá trị tài sản
hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn mà còn phù hợp với sức mua của cán bộ
công nhân viên tại nhiệm sở và trong ngành.
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
3. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nớc
Đại hội Đảng lần thứ VIII (1986) đã khẳng định Triển khai tích cực và
vững chắc việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc để huy động vốn, tạo thêm
động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nớc
ngày càng tăng lên chứ không phải t nhân hoá
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc chuyển
một số Doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển Doanh
nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội trong nớc và nớc ngoài để đầu t đổi mới công nghệ tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh
nghiệp nhà nớc.
- Tạo điều kiện để ngời lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những ngời đã góp vốn đợc làm chủ thực sự; thay đổi phơng thức quản lý tạo
động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cờng phát triển
đất nớc, nâng cao thu nhập của ngời lao động, góp phần tăng trởng kinh tế của
đất nớc.
Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần
hoá đã đợc xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng huy động
vốn để phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ
thực sự, tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay
hai mục tiêu ở vị trí ngang nhau.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những
điều kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá-
hiện đại hoá đất nớc, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng
cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn
kinh doanh là một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Để huy
động vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh
doanh có hiệu quả đợc coi là diều kiện tiên quyết. Đặt việc huy động vốn cho
phát triển doanh nghiệp nh một mục tiêu hàng đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
phần hoá xuất phát từ yêu cầu giải quyết khó khăn của Nhà nớc trong việc đảm
bảo vốn doanh nghiệp. Điều đó đến lợt mình, có thể gây trở ngại cho việc thực
hiện chính mục tiêu ấy, ngời lao động không thấy đợc động lực kinh tế trực tiếp
trong việc góp vốn của mình. Trong cơ chế thị trờng, để thúc đẩy nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa
quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định
rõ ngời chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần
hoá là điều kiện xác lập ngời chủ một bộ phận tài sản của doanh nghiệp, ngời
chủ ấy cùng với ngời đại diện Nhà nớc ở doanh nghiệp quản lý điều hành hoạt
động kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn nữa, việc huy động thêm vốn
chỉ là phơng tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế mà
thôi. Nếu không đợc quản lý sử dụng tốt số vốn đợc huy động đó cũng không
thể mang lại hiệu quả mong đợi.
Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những
ngời sở hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng cổ phần và phát hành cổ phần là
điều kiện cần thiết để tạo thành những ngời chủ đích thực của doanh nghiệp phụ
thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn thêm.
Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nớc chỉ là một chủ trơng lớn
của Đảng va Nhà nớc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung -
ơng khoá VII đã nêu rõ: Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện
thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới.
Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu thực hiện
từng bớc vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần doanh nghiệp không cần Nhà
nớc đầu t 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán
một tỉ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo
động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay
cá nhân ngoài quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô kinh doanh. Nh
vậy, Nghị quyết của Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái quát hình
thức, mức độ cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc.
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc.
- Điều kiện và môi trờng pháp lý về cơ bản đã đợc xác lập đặt tất cả các
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trờng. Việc thực hiện thơng mại hoá
các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là
tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bớc thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp
nhà nớc.
- Chính Phủ đã nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá
các Doanh nghiệp nhà nớc và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban
hành các văn bản luật và dới luật nhăm thực hiện chơng trình cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nớc nh luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản
xuất trong khu vực kinh tế Nhà nớc. Chỉ thị 84-TTg của Thủ tớng Chính phủ về
thí điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nớc Ngoài ra còn có các
quyết định, thông t của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể hoá việc thực hiện vấn
đề này. Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phơng hớng chỉ đạo thống
nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.
- Tình hình kinh tế đất nớc đã có nhiều biến đổi theo hớng tích cực: giá
cả thị trờng đã đợc duy trì tơng đối ổn định, mức lạm phát đã đợc kiềm chế,
đồng tiền Việt Nam đã giữ đợc giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt
động đầu t sản xuất kinh doanh Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý
cho mọi ngời muốn đầu t thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các Doanh
nghiệp nhà nớc đợc cổ phần hoá.
- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần của Nhà nớc mấy năm qua, thu nhập của dân c đợc nâng cao. Số ngời khá
giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lợng cầu tiềm năng có thể
đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp đợc cổ phần
hoá.
- Hoạt động trong cơ chế thị trờng mới đợc hai chục năm nhng đã xuất
hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lớn; ngời lao
động trong các doanh nghiệp đã thích ứng đợc về ý thức, tác phong và hiệu quả
của công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lợng và hiệu quả.
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
Điều này sẽ làm cho ngời đầu t yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc
thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nớc.
- Với luật đầu t nớc ngoài cà sự xuất hiện của nhiều nhánh ngân hàng
kinh doanh của nớc ngoài tại Việt Nam góp phần tạo môi trờng và điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu t bằng cổ phiếu vào các Doanh nghiệp nhà nớc sẽ đợc
tiến hành cổ phần hoá.
- Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nớc trên
thế giới trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc sẽ là những bài học
bổ ích và quý giá để Nhà nớc tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực
hiện công việc cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam.
- Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn có những điều kiện thuận lợi để đẩy
mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc. Đó là những khó khăn gặp phải trong
thời gian đầu thực hiện thí điểm cổ phần hoá đã dần đợc khắc phục, có thể kể
đến nh chúng ta đã có một thị trờng chứng khoán thực sự, tuy cha phát triển sôi
động nh các nớc phát triển và khu vực, nhng đó cũng là môi trờng để thực hiện
cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nớc hiện nay hầu hết đều trang bị máy
móc, công nghệ hiện đại, khả năng cạnh tranh cao do đó có thể tiến hành cổ
phần hoá các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó tình hình chính trị quốc gia ổn
định tạo niềm tin thu hút các nhà đầu t nớc ngoài
Với những tiền đề nh thế thì quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc
của chúng ta đã diễn ra nh thế nào? Chúng ta đã làm đợc những gì và còn hạn
chế gì? Để từ đó có biện pháp thích hợp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ
phần hoá.
SV: Hoàng Thị Trang
Đề án kinh tế chính trị
II. Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam.
1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta.
Từ đầu thập kỷ 90, cùng với đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, Đảng
ta đã có chủ trơng chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ
phần. Khởi đầu là Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành TW khoá
VII tháng 11/1991. Nghị quyết này đã chỉ ra : chuyển một số doanh nghiệp
quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty cổ
phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trớc khi
mở rộng phạm vi thích hợp. Trải qua 15 năm thực hiện đến hết năm 2005,
chúng ta đã thành lập đợc 2987 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nớc và bộ phần Doanh nghiệp nhà nớc. Kết quả thực hiện qua từng
năm nh sau:
Năm Số Doanh nghiệp nhà nớc đợc cổ phần hoá
1990-1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Không
02
01
03
05
07
100
250
212
204
164
532
753
754
Tổng 2987
Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bớc
thăng trầm, nhng nói chúng là theo xu hớng mỗi ngày càng đợc đẩy mạnh. Từ
chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba doanh nghiệp
SV: Hoàng Thị Trang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét