Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Khủng hoảng tài chính

TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 5 -
là chứng khoán xấu.Do đó bạn sẽ có xu hướng đặt giá trung bình cho những
chứng khoán mà bạn mua trong khoảng giá trị của những công ty tồi đến
những công ty tốt. Do vậy nhũng công ty tốt có trong tay đầy đủ thông tin và
biết được rằng giá trị công ty của họ đã bị đánh giá thấp và không muốn bán
cho bạn với giá đó. Ngược lại những công ty tồi luôn sẵn lòng bán cho bạn ở
mức giá mà bạn trả. Nếu bạn là người thông minh thì chắc sẽ không muốn
nắm giữ nó.Và như vậy sẽ tạo ra nghi ngại, lưỡng lự, cân nhắc khi thực hiện
mua bán trên thị truờng tài chính.
Rủi ro đạo đức là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc
giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị truờng tài chính xảy ra khi
nguời cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những
hoạt động không tốt( thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay,
bởi vì những hoạt động này khiến ít có khả năng để món vay này sẽ hoàn trả.
Rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có
thể quyết định thôi không cho vay nữa. Khía niệm rủi ro đạo đức chỉ ra rằng
các bên luôn có sự nghi ngờ, không tín nhiệm lẫn nhau. Do đó ngăn cản hoạt
động kinh doanh và cả sự lưu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Khủng hoảng tài chính xảy ra khi vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức trong thị trường tài chính trở nên quá tồi tệ đến mức mà thị trường tài
chính không còn khả năng khơi nguồn vốn một cách hữu hiệu từ những
người tiết kiệm tới những người có những cơ hội đầu tư sinh lợi. kết quả của
sự bất lực của thị truờng tài chính không hoạt động hữu hiệu là có một sự
thu hẹp quan trọng trong các hoạt động kinh tế.
Trong hoạt động của các trung gian tài chính thì nguyên nhân lớn nhất đuợc
cho là dẫn đến khủng hoảng tài chính do sự đổi mới tài chính, với sự xuất
hiện của các quỹ bảo hiểm tiền gửi. trở ngại nghiêm trọng nhất của hệ thống
điều hành hoạt động ngân hàng xuất phát từ rủi ro đạo đức. Rủi ro đạo đức là
một đặc điểm quan trọng của dàn xếp bảo hiểm nói chung bởi vì sự tồn tại
của bảo hiểm mang lại những ý muốn mạnh hơn đối với việc mang lấy
những rủi ro và điều đó có thể đưa đến một sự thanh toán bảo hiểm. Những
người gửi tiền có bảo hiểm biết rằng họ sẽ không gánh chịu tổn thất nếu
ngân hàng vỡ nợ, họ không áp đặt một kỉ luật thị trường cụ thể lên các ngân
hàng bằng cách rút tiền gửi khi họ nghi ngờ rằng ngân hàng của họ đang
mang lấy quá nhiều rủi ro. Kết cục các ngân hàng có bảo hiểm tiền gửi có
thể có nhiều rủi ro hơn so với trường hợp không có bảo hiểm. Thế nhưng
chính điều này tạo nên sự lỏng lẻo trong hoạt động các ngân hàng làm cho
chúng dễ dàng nhận lấy rủi ro để hi vọng kiếm lợi mà không bị ràng buộc
bởi những người gửi tiền. Nếu không có bảo hiểm những người gửi tiền luôn
thận trọng lựa chọn các ngân hàng mà họ gửi cùng với những điều kiện cụ
thể đảm bảo cho khoản cho vay của họ sẽ được an toàn. Mặt khác các ngân
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 6 -
hàng cũng không muốn mang lấy những rủi ro lớn nếu nó có nguy cơ đe doạ
một sự phá sản. Vấn đề lựa chọn đối nghịch cũng xảy ra đối với bảo hiểm
tiền gửi, vấn đề này dễ xảy ra đối với những ngưòi có nhiều khả năng tạo ra
kết cục đối nghịch được bảo hiểm, là những người mà muốn thu lợi từ việc
bảo hiểm này hơn cả. Do những người gửi tiền có bảo hiểm ít có lí do để
giám sát ngân hàng của họ, còn những kẻ đầu cơ thấy công nghiệp ngân
hàng là một công nghiệp hấp dẫn đặc biệt, họ biết có thể thực hiện những
hoạt động rủi ro cao. Tệ hơn là những người gửi tiền có bảo hiểm ít giám sát
các hoạt động ngân hàng của họ nên những kẻ lừa đảo trắng trợn thấy hoạt
động ngân hàng là một lĩnh vực hấp dẫn cho những hoạt động của chúng,
bởi vì chúng dễ bỏ chốn với món tiền biển thủ.
Những nhân tố gây các cuộc khủng hoảng tài chính.
Những nguyên nhân nêu trên là những nhân tố sâu xa, khởi sự của các cuộc
khủng hoảng tài chính. Khi xuất hiện nhưng nhân tố này thì kéo theo sự xuất
hiện của 5 nhân tố: sự tăng lãi suất, sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu, sự sụt
giảm bất ngờ về mức giá, sự tăng tính không chắc chắn, sự hoảng loạn ngân
hàng.
Sự tăng lãi suất đồng nghĩa với việc chi phí của đồng vốn sử dụng sẽ cao
hơn. Nguyên lí quan trọng là các món vay có mức độ rủi ro càng cao thì lãi
suất càng cao. Những cá nhân công tuy với những dự án đầu tư rủi ro nhất
chắc chắn là những người sẵn lòng chịu vay với lãi suất cao nhất. sự tăng lãi
suất làm cho giảm bớt những vụ vay tín dụng có triển vọng tốt, làm tăng
những món vay khó đòi, làm tỉ lệ nợ khó đòi của ngân hàng đó ở mức báo
động. Nếu thông tin này đến tai người gửi sẽ làm cho người gửi ồ ạt rút tiền
khỏi ngân hàng. Sự đổ vỡ của một ngân hàng làm liên luỵ đến các ngân hàng
khác, tức là xảy ra hiệu ứng domino.
Sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu: điều này có thể làm tăng lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức trong thị truờng tài chính và tạo ra một cuộc khủng
hoảng tài chính. Sự sụt giảm đồng nghĩa với giá trị tài sản ròng cũng sụt
giảm theo, nó sẽ ít có khả năng bảo vệ hơn cho người vay, nguy cơ tổn thất
từ các món vay sẽ cao hơn khiến nhà đầu tư giảm bớt ý định cho vay. Ngoài
ra sự sụt giảm nói lên làm tăng ý muốn gây rủi ro đạo đức ở những công ty
đi vay thực hiện những phi vụ rủi ro.
Những sự sụt giảm bất ngờ về mức giá: cũng làm giảm giá trị tài sản ròng
của các công ty. Hiện tượng này còn làm tăng giá trị các món nợ của các
công ty theo hiện vật nhưng không tăng giá trị thực, làm tăng các vấn đề lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Sự tăng tính không chắc chắn: một sự tăng tính không chắc chắn trong thị
trường tài chính, có thể do sự thất bại của một tổ chức tài chính hoặc phi tài
chính nổi tiếng khiến cho người vay khó phân biệt được đâu là tín dụng có
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 7 -
triển vọng tốt, đâu là xấu, làm cho họ giảm bớt ý định cho vay, đầu tư vào
hoạt động kinh tế tổng hợp.
Sự hoảng loạn ngân hàng: ngân hàng đóng một vai trò quan trọng, phần lớn
nguồn vốn trong nền kinh tế luân chuyển qua hệ thống ngân hàng. Sự hoảng
loạn này làm giảm tổng số các hoạt động trung gian tài chính mà ngân hàng
thực hiện, làm giảm khối lượng vốn cung ứng, dẫn đến việc tăng lãi suất. Và
như đã nói trên sự tăng lãi suất là một trong yếu tố trực tiếp tạo nên khủng
hoảng tài chính.




























TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 8 -
II. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997. Bài học
được rút ra sau cuộc khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu
từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường
chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác
ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những
con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng
hoảng tiền tệ Đông Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất
bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị
ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan,
Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh
hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua
những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông
Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng
hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các
nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
Nguyên nhân
Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà
kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị
đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự
do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập
niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo
vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính
sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô
hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt
ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ
trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn
Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa
quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá
hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt
tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi
vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi
ro
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 9 -
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó
còn ở MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông
Á".Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là
do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao
động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức
độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng
trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có
thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi
như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính
ông ta cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng
hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó.
Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và
Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở
nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới
tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra
nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do
hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát
triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của
chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á
bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp
mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ
không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa
chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)
Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu
Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với
Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu
của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á.
Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy
thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo
của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát.
Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các
nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông
qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền
của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các
nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng
trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm
suy yếu tài khoản vãng lai của họ.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 10 -
Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là
những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản
của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn
tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện
thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một
số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư
nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng
hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng
lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên
cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại
càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống
tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền
kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại
Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25
tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước
ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của
ASEAN trong giai đoạn này. Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân
hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã
gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình dương
EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới.
Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự
Hội nghị Bộ trưởng Tài chínhAPEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày
17 tháng năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể
nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ
chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể
xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất
bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được
áp dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm
trầm trọng.
Diễn biến
Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình
quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới
của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong
bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 11 -
khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn
chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công
đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan ó đã xuống đến
mức 56 baht mới đổi được 1 còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn
hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance
One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng
dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Chavalit Yongchaiyudh
tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2
tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, n Lan
đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một
gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF
thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung
ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ
đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ
15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một
dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên
quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng
chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán
Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000
điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên
làm tổng thống.
Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này
vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm
phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn
công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó
tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên
Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền
của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày
20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15
tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên
thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ
Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang
Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang,
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 12 -
lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính
Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua
vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các
loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng
khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar
Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng
khoán của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà
đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính
phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức
7,8 : 1.
Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh
nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn
ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy
ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu
bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm
1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1
xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong
ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại
tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách
khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ
mức 1000 KRW/USD.
Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng
Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị
sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ
xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là
từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những
người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng
thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit
trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống
khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức
24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.


TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 13 -
Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và
Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và
đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng
chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một
gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng
Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng
khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia,
đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên.
Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán
Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của
IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai
mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã
bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng
hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa
năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng
2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức
18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ
của Indonesia đã giảm đi.
Hậu quả
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất
giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước
châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy
xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh
hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của
Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống
phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros
và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh
ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu
người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất
giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 14 -
Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức
8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia
giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD
xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn
tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước
không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu
giảm và do FDI vào giảm.
Ý nghĩa
Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết
phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này
thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các
quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác
động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó, nhiều chính phủ đã ban hành
những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.
Bên cạnh đó,những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống
phòng ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như
Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3,
Sáng kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á,
Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của
các mô hình lý luận về khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích
nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ
lực nhằm đưa ra một mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như
mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý
thuyết về nguồn gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền
tệ,
Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh
tế Đông Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ,
gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài
chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ
mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế.
Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô
Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối
đoái linh hoạt và cơ chế ổn định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá
hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ
lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005,

Xem chi tiết: Khủng hoảng tài chính


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét