dài nước ta. Để thực hiện ý đồ nham hiểm đó, ngay từ đầu, Mỹ chủ
trương vừa ký Hiệp định, vừa giúp nguỵ quyền Sài Gòn tiếp tục chiến
tranh điên cuồng phá hoại Hiệp định. Đế quốc Mỹ đã tiến hành ở miền
Nam nước ta một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới bằng
nhiều biện pháp thâm độc.
Chúng tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho bọn nguỵ. Trước khi
rút quân ra, Mỹ đã đưa vào miền Nam gần 700 máy bay các loại, 500
khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và rất nhiều tàu chiến, dự kiến
đưa thêm một số lớn binh khí kỹ thuật, tăng dự trữ vật tư chiến tranh
của quân nguỵ lên mức tương đối cao, gần 2 triệu tấn.
Hiệp định ký chưa ráo mực, Nguyễn Văn Thiệu đã hò hét "tràn ngập
lãnh thổ", tập trung lực lượng thực hiện "Kế hoạch bình định ba năm
1973-1975", "Kế hoạch bình định sáu tháng từ tháng 3-1973 đến tháng
8-1973", "Kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt", "Kế hoạch xây dựng quân
đội từ 1974 đến 1979" nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang và tổ chức
cách mạng của ta ở miền Nam.
Địch khẩn trương củng cố và tăng cường xây dựng quân nguỵ, nhất
là các quân chủng, binh chủng nhằm bảo đảm cho quân nguỵ đủ sức
đối phó với quân chủ lực của ta trong mọi tình huống. Trong năm 1973,
địch đã bắt khoảng 24 vạn lính, thu thập lại trên 13 vạn quân đào ngũ,
rã ngũ và bị thương, đưa tổng quân số của chúng lên tranh cách mạng
để giành thắng lợi hoàn toàn". Và "Cách mạng miền Nam phải nắm
vững tư tưởng chiến lược tiến công. Ta phải kiên quyết phản công và
tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta".
Tinh thần của Nghị quyết 21 là: Địch không thi hành Hiệp định, tiếp
tục chiến tranh Việt Nam hoá, thực chất là chiến tranh thực dân kiểu
mới hòng chiếm lấy cả miền Nam, thì ta không có con đường nào khác
là phải tiên hành chiến tranh cách mạng, tiêu diệt chúng, giải phóng
miền Nam.
Hội nghị Quân uỷ Trung ương không những vạch rõ phương châm
chung là "phản công và tiến công" mà còn nêu lên phương hướng vận
dụng phương châm đó trong từng vùng và những phương thức hoạt
động trên từng chiến trường. Hội nghị còn đề ra nhiệm vụ cho toàn
quân: tích cực tiến hành công tác chính trị nhằm không ngừng nâng cao
chất lượng chính trị toàn diện của các lực lượng vũ trang, tạo nên một
sự chuyển biến mới mạnh mẽ, cả về tư tưởng, tổ chức, năng lực, tác
phong trong mọi đơn vị, mọi cán bộ, chiến sĩ, nhất là nâng cao ý chí
chiến đấu, tăng cường tổ chức kỷ luật, bảo đảm cho ba thứ quân hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương được Bộ Chính trị thông qua.
Sau khi có Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng Tham
mưu cùng với Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, bắt tay ngay vào
việc nghiên cứu, lập những kế hoạch tác chiến chiến lược chung và kế
hoạch tác chiến từng chiến trường; khẩn trương tổ chức và huấn luyện
các binh đoàn chủ lực, các binh chủng kỹ thuật; vạch kế hoạch về các
mặt công tác chuẩn bị và công tác bảo đảm; đồng thời chỉ đạo các chiến
trường đẩy mạnh hoạt động thực hiện các đợt tiến công và nổi dậy, giữ
vững và phát triển thế chủ động chiến lược, làm chuyển biến cục diện
chiến trường, tạo điều kiện cho tiến công lớn, rộng khắp trong năm
1975.
Các địa phương và các đơn vị, từ Trị Thiên đến Tây Nam Bộ và vùng
ven Sài Gòn - Gia Định, từ tháng 4 năm 1974 đến tháng 10 năm 1974
đều hoạt động mạnh lên, phản công và tiến công địch liên tục, giành
thắng lợi ngày càng lớn, với nhịp độ nhanh. Nơi nào quán triệt Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 và Nghị quyết Quân uỷ Trung
ương, nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng tiến công,
thì nơi đó chẳng những phá được kế hoạch "bình định" của địch, giữ
vững được vùng giải phóng của ta và các căn cứ trong vùng địch kiểm
soát, mà còn mở rộng thêm được nhiều vùng giải phóng, dồn địch vào
thế lúng túng, bị động đối phó.
Chúng tôi đặc biệt chú ý đến kết quả trận tiêu diệt quận lỵ Thượng
Đức ở Khu 5. Đây là trận thử sức với lực lượng gọi là tinh nhuệ nhất của
địch. Ta tiêu diệt địch ở chi khu quận lỵ Thượng Đức, địch đưa cả sư
đoàn lính nhảy dù đến phản kích liên tục, dài ngày hòng chiếm lại,
nhưng ta đã đánh cho chúng thiệt hại nặng, giữ vững Thượng Đức, buộc
địch phải "bỏ cuộc".
Từ trận Thượng Đức này và các trận tiêu diệt quân chủ lực địch ở
Chư Nghé, Đắc Pét trên Tây Nguyên, Bộ Tổng Tham mưu đi đến nhận
định và báo cáo với Quân uỷ Trung ương: khả năng chiến đấu của bộ
đội chủ lực cơ động của ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch.
Chiến tranh đã bước vào giai đoạn cuối, so sánh lực lượng đã thay đổi,
ta mạnh lên, địch yếu đi. Do đó ta có thể và cần phải chuyển từ đánh
nhằm tiêu diệt sinh lực địch là chính, sang đánh chẳng những tiêu diệt
địch mà còn nhằm giải phóng nhân dân và giữ đất, từ chỗ quân chủ lực
ta lấy tiêu diệt quân chủ lực địch trên chiến trường rừng núi là chủ yếu,
sang tiêu diệt địch và giải phóng nhân dân, giải phóng đất cả ở vùng
giáp ranh, đồng bằng và thành phố. Muốn đánh tiêu diệt lớn và giữ
vững các vùng mới giải phóng thì việc chỉ sử dụng các sư đoàn độc lập
hoặc phối hợp không còn thích hợp nữa, mà cần có những binh đoàn cơ
động, binh chủng hợp thành lớn hơn, làm quả đấm mạnh, được sử dụng
vào những thời cơ quan trọng nhất, hoạt động trên những hướng chủ
yếu, giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu nhằm tiêu diệt lớn quân chủ
lực địch.
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nhất trí với nhận định này và
chỉ thị cần xúc tiến tổ chức ngay các binh đoàn cơ động trực thuộc Bộ
Tổng tư lệnh. Từ tháng 10 năm 1973 trở đi, lần lượt các quân đoàn
được thành lập tập trung huấn luyện tác chiến hợp đồng binh chủng và
bố trí trên các địa bàn chiến lược cơ động nhất. Việc xây dựng các quân
đoàn có đủ các thành phần binh chủng kỹ thuật là một bước trưởng
thành mới của quân đội ta, làm cho ta có khả năng tiến hành các chiến
dịch hợp đồng binh chủng quy mô lớn gồm nhiều quân đoàn, sư đoàn,
có sức đột kích lớn, cơ động cao, sức chiến đấu liên tục, có khả năng
đánh tiêu diệt quân địch trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược: Đi
đôi với tổ chức lực lượng còn một việc cấp bách khác là biên chế và thay
đổi trang bị cho quân đội được tốt và hiện đại hơn. Một khối lượng lớn
hàng quân sự của ta như xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo tầm xa,
pháo cao xạ mà đế quốc Mỹ định phá huỷ trong đợt 12 ngày đêm ném
bom miền Bắc bằng máy bay B.52 không được, nay lần lượt được
chuyển tới các chiến trường. Và lần đầu tiên pháo cơ giới tầm xa và
những xe tăng tốt của ta đã vào tận những rừng cao su Nam Bộ. Đây là
một bước trưởng thành lớn của quân đội ta, đồng thời cũng là bước
chuẩn bị lực lượng tích cực nhất cho cuộc tổng tiến công sau này.
Có lực lượng lớn, có trang bị hiện đại chưa đủ, còn phải tổ chức
chiến trường để có thể phát huy được hết sức mạnh của lực lượng lớn
và trang bị hiện đại đó. Quy luật chiến tranh cách mạng là từ những
đơn vị nhỏ ban đầu phát triển thành những binh đoàn lớn tác chiến hợp
đồng binh chủng để tiêu diệt lớn lực lượng địch và cuối cùng phải đánh
vào thành phố, đánh vào đầu não chính quyền địch, mới đánh gục được
địch, giải phóng Tổ quốc. Và như vậy phải có đủ đường giao thông,
phương tiện vận chuyển cơ giới mới có đủ lương thực, thực phẩm, đạn
dược, vũ khí cho tiền tuyến.
Một vấn đề then chốt là phải có hệ thống đường cơ động tốt. Công
trình xây dựng con đường chiến lược phía Đông Trường Sơn bắt đầu từ
năm 1973, hoàn thành đầu năm 1975 được xúc tiến với nhịp độ hết sức
khẩn trương nối hền từ đường số 9 (Quảng Trị) vào đến miền Đông
Nam Bộ là công trình lao động của hơn 30.000 bộ đội và thanh niên
xung phong, đưa tổng số chiều dài đường chiến lược và chiến dịch, cả
cũ và mới, làm trong suốt cuộc chiến tranh lên hơn 20.000km. Nhà
nước và nhân dân ta đã dồn sức dồn của rất lớn vào công trình này.
Hàng nghìn xe máy các loại, hàng chục nghìn bộ đội, công nhân, kỹ sư,
thanh niên xung phong và dân công vượt qua muôn vàn khó khăn, gian
khổ do khí hậu, thời tiết và bom đạn địch gây ra, ngày đêm phá núi san
đèo, chuyển đá đắp đường, xây cống, dựng cầu, tạo ra một kỳ công rất
tự hào ở phía Tây Tổ quốc. Đúng là "Đường ta rộng thênh thang tám
thước", các xe vận tải cỡ lớn, các xe chiến đấu loại nặng chạy được hai
chiều với tốc độ cao cả bốn mùa, đã ngày đêm hàm hở chuyển hàng
trăm nghìn tấn vật chất các loại vào hệ thống kho tàng cho các chiến
trường để bảo đảm đánh lớn.
Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000km
đường ống dẫn dầu kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh,
vượt sông cả, suối sâu, núì cao, có ngọn hơn 1.000 mét, đủ sức tiếp
dầu cho hàng chục nghìn xe các loại vào, ra trên đường.
Có thể nêu một hình ảnh đáng tự hào là trên vùng núi chót vót ở
phía tây Tổ quốc, hơn 20.000km đường chiến lược từ Bắc chí Nam và
đường chiến dịch từ Tây sang Đông như những chiếc thừng rất chắc
đang từng ngày từng giờ luồn dần vào cổ, vào chân tay con quái vật,
chờ khi có lệnh là siết chặt, kết liễu đời nó.
Đường dây thông tin hữu tuyến cũng đã kéo dài tới Lộc Ninh. Từ Hà
Nội đã nói chuyện thẳng được với nhiều chiến trường.
Giữa lúc nhân dân miền Nam đẩy lùi địch hầu khắp mọi nơi để
giành quyền làm chủ thì ở miền Bắc, từ các bản làng, khu phố, cơ quan,
trường học, xí nghiệp, hàng chục nghìn thanh niên nô nức vào bộ đội,
lên đường ra mặt trận theo tiếng gọi của Đảng và Tổ quốc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết
Quân uỷ Trung ương cùng sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Bộ Chính
trị đã làm chuyển biến cục, diện chiến trường có lợi cho ta và động viên
được sức mạnh cả nước hướng ra tiền tuyến.
Chương 2
Thời cơ
Trong các tháng 7, 8, 9, 10 năm 1974, các cơ quan Bộ Tổng Tham mưu
làm việc nhộn nhịp và căng thẳng. Các đồng chí trong Quân uỷ Trung
ương và Bộ Chính trị hàng ngày theo dõi tình hình và chỉ đạo việc
nghiên cứu dự thảo kế hoạch tác chiến chiến lược.
Lúc này, một luồng gió mát phấn chấn thổi qua toàn Đảng và toàn
dân ta: Cách mạng miền Nam đang trỗi dậy sau Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương
tháng 3 năm 1974.
Cục diện chiến trường đang chuyển biến có lợi cho ta. Quân và dân
ta đã chủ động đưa thế và lực cách mạng tiến lên từng bước vững chắc,
đã phản công và tiến công địch liên tục giành thắng lợi ngày càng lớn
với nhịp độ nhanh.
Khu 9 nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, đánh bại các cuộc
hành quân lấn chiếm của địch, xoá hẳn hơn 2.000 đồn bốt địch, giải
phóng hơn 400 ấp với gần 800.000 dân. Khu 8 xoá hẳn hơn 800 đồn
bốt địch, giải phóng thêm hơn 200 ấp với hơn 130.000 dân. Khu 7 duy
trì thế tiến công địch, đánh bại cuộc hành quân giải toả của địch, giữ
vững bàn đạp phía bắc Sài Gòn. Vùng ven Sài Gòn đẩy mạnh các mặt
đấu tranh giữ vững các lõm giải phóng, đánh thiệt hại nặng quân địch
phản kích. Khu 5 đã chuyển lên thế tiến công ngày càng mạnh, mở rộng
bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh
Long, Giá Vụt), đẩy mạnh đánh phá địch ở đồng bằng, xoá hẳn gần 800
đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân. Ở Tây Nguyên, ta tiến
công tiêu diệt và bức rút Đắc Pét, Chư Nghé, Măng Bút, Măng Đen, I-a-
súp, mở rộng vùng giải phóng và hành lang chiến lược. Ở Trị Thiên, tiếp
tục giam chân sư đoàn thuỷ quân lục chiến, sư đoàn cơ động chiến lược
của nguỵ, áp sát vùng giáp ranh và đẩy mạnh chống "bình định" ở đồng
bằng ngày càng có kết quả hơn.
Địch thì bị động, sa sút toàn diện. Kế hoạch "bình định" lấn chiếm
của chúng bị đánh bại một bước quan trọng trên nhiều khu vực ở đồng
bằng, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Tinh thần và sức chiến đấu
của quân nguỵ giảm sút rõ rệt: 170.000 tên đào ngũ, rã ngũ kể từ đầu
năm. Tổng số quân của chúng giảm 20.000 tên so với năm 1973; số
quân chiến đấu giảm xuống nhiều. Lực lượng cơ động chiến lược địch bị
sa lầy (sư đoàn thuỷ quân lục chiến ở Trị Thiên, sư đoàn dù ở Thượng
Đức). Mỹ giảm viện trợ làm cho kế hoạch tác chiến và xây dựng lực
lượng của quân nguỵ không thực hiện được theo ý muốn của chúng.
Trong tài khoá 1972-1973, Mỹ viện trợ cho nguỵ 1.614 triệu đôla về
quân sự. Tài khoá 1973-1974 chỉ còn 1.026 triệu đôla và tài khoá 1974-
1975 giảm xuống còn 700 triệu. Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân
của hắn chuyển sang tác chiến "kiểu con nhà nghèo": theo tài liệu của
chúng thì chi viện hoả lực giảm sút gần 60% vì thiếu bom, đạn; sức cơ
động cũng giảm 50% vì thiếu máy bay, thiếu xe, thiếu cả nhiên liệu.
Tình trạng đó buộc chúng phải chuyển từ hành quân lớn, tiến công nhảy
sâu bằng máy bay lên thẳng, xe tăng sang phòng ngự chốt, lấn dũi,
lùng sục nhỏ.
Tóm lại, đặc điểm chủ yếu của tình hình miền Nam sau gần hai năm
ta đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris là: mặc dầu quân Mỹ và quân
chư hầu đã buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, nhưng ở đây vẫn
đang diễn ra một cuộc chiến tranh cách mạng của ta chống chiến tranh
thực dân mới của địch, kết hợp tiến công quân sự và đấu tranh chính
trị. Nổi bật là cuộc đấu tranh đó diễn ra với quy mô ngày càng lớn mà ta
thì ngày càng chủ động và mạnh lên, địch ngày càng bị động và yếu đi,
tạo thêm một bước phát triển mới về so sánh lực lượng có lợi cho cách
mạng.
Đi đôi với việc phát triển thế và lực trên chiến trường miền Nam, ta
còn ra sức xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh về mọi mặt,
từng bước khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của hai cuộc chiến
tranh phá hoại.
Về sản xuất đạt xấp xỉ mức năm 1965, đời sống nhân dân được ổn
định. Trong hai năm 1973-1974, hàng chục vạn chiến sĩ đã được động
viên ra tiền tuyến, công tác chuẩn bị, sẵn sàng chiến đấu, chủ yếu là từ
Khu 4 cũ trở vào và trong quân chủng Phòng không - Không quân được
tiến hành rất tích cực.
Tháng 10-1974, trời cuối thu bắt đầu lạnh, gợi cho các cán bộ quân
sự chúng tôi nhớ đến mùa chiến dịch sắp đến. Bộ Chính trị và Quân uỷ
Trung ương họp nghe Bộ Tổng Tham mưu trình bày kế hoạch tác chiến
chiến lược.
Cục tác chiến Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị khá đầy đủ mọi mặt tình
hình địch và ta, diễn biến trên các chiến trường từ sau khi ký Hiệp định
Paris bằng những bản đồ, biểu đồ, bảng so sánh các số liệu, treo khắp
bốn bức tường trong phòng họp. Qua nghe báo cáo và thảo luận, hội
nghị nhất trí đánh giá tình hình miền Nam gọn trong năm điểm:
Một là, quân nguỵ ngày càng suy yếu cả về quân sự chính trị, kinh
tế. Lực lượng ta đã mạnh hơn địch ở miền Nam.
Hai là, Mỹ ngày càng gặp nhiều khó khăn trong nước và trên thế
giới, khả năng viện trợ cho nguỵ ngày càng giảm bớt, cả về chính trị và
kinh tế. Do đó, Mỹ chẳng những phải giảm bớt viện trợ cho nguỵ mà
còn khó có khả năng nhảy vào lại miền Nam và dù chúng có can thiệp
thế nào đi nữa cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của nguỵ
quyền Sài Gòn.
Ba là, ta đã tạo được một thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam,
đã tăng cường được lực lượng và dự trữ vật chất, đã hoàn chỉnh được
hệ thống đường giao thông chiến lược và chiến dịch.
Bốn là, ở đô thị đã có phong trào đòi hoà bình, dân sinh, dân chủ,
độc lập dân tộc, đòi lật đổ Thiệu.
Năm là, nhân dân thế giới đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Hội nghị lần này có một vấn đề được đặt ra và thảo luận sôi nổi:
liệu Mỹ có khả năng đưa quân trở lại miền Nam khi ta đánh lớn dẫn đến
nguy cơ sụp đổ của quân nguỵ không? Mọi người đều thấy rõ và rất chú
ý là sau khi ký Hiệp định Paris về Việt Nam, buộc phải rút ra khỏi miền
Nam Việt Nam, Mỹ lại càng khó khăn và bối rối hơn trước. Mâu thuẫn
trong nội bộ chính quyền Mỹ và giữa các đảng phái ở Mỹ lại càng gay
gắt thêm. Vụ bê bối Oatơghết giày vò cả nước Mỹ kéo theo sự từ chức
của một tổng thống cực kỳ phản động: Níchxơn. Kinh tế Mỹ suy thoái,
lạm phát tăng, nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng, khủng hoảng nhiên
liệu đang tiếp diễn. Những đồng minh của Mỹ cũng kèn cựa với Mỹ và
các nước phụ thuộc vào Mỹ cũng tìm cánh quẫy ra khỏi sự khống chế
của Mỹ. Viện trợ của Mỹ cho nguỵ quyền Sài Gòn theo hướng ngày càng
giảm.
Đồng chí Lê Duẩn kết luận một nhận định quan trọng thành nghị
quyết: "Mỹ đã rút ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng nhảy vào lại
miền Nam và dù chúng can thiệp đến thế nào đi nữa thì cũng không thể
cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn".
Khi thảo luận kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1975, một vấn đề
rất quan trọng nữa cũng được đặt ra là chọn chiến trường chủ yếu ở
đâu? Trên toàn chiến trường miền Nam, địch bố trí lực lượng theo thế
"mạnh ở hai đầu". Cụ thể là ở Quân khu 1 tiếp giáp với miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, địch có 5 sư đoàn chủ lực; ở Quân khu 3, trong đó có tuyến
phòng thủ vòng ngoài bảo vệ Sài Gòn, địch có 3 sư đoàn chủ lực, nhưng
chúng còn có thể sẵn sàng cơ động 1 đến 2 sư đoàn chủ lực trong số 3
sư đoàn ở Quân khu 4 về. Còn ở Quân khu 2, trong đó có Tây Nguyên,
địch chỉ có 2 sư đoàn chủ lực, lại phải rải ra vừa giữ các tỉnh Tây
Nguyên, vừa phải bảo vệ các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ từ Bình Định
đến Bình Thuận. Nhưng Tây Nguyên là một chiến trường hết sức cơ
động, có nhiều lợi thế để phát triển về phía nam theo đường số 14 hoặc
xuống phía đông theo các đường số 19, 7, 21. Địa hình ở đây là cao
nguyên, độ cao chênh lệch không đáng kể, tiện việc làm đường, các
binh khí kỹ thuật cơ động thuận tiện, phát huy được hết sức mạnh. Tóm
lại, đứng về mặt chiến lược, đây là một địa bàn hết sức quan trọng.
Hội nghị nhất trí thông qua phương án của Bộ Tổng Tham mưu,
chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng chiến trường chủ yếu trong
cuộc tiến công lớn và rộng khắp năm 1975.
Nhưng Bộ Chính trị thấy rằng, để đi đến quyết định cuối cùng về
quyết tâm chiến lược, còn phải nghiên cứu tình hình kỹ hơn nữa, bổ
sung cho kế hoạch tác chiến chiến lược đầy đủ hơn nữa. Đồng thời
quyết định phải gấp rút đẩy mạnh nhiều mặt công tác để thực hiện
quyết tâm.
Bộ Chính trị triệu tập các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến
trường ở miền Nam ra Hà Nội báo cáo tình hình và bàn kỹ để có sự nhất
trí về quyết tâm chiến lược.
Đầu tháng 12 năm 1974, các đồng chí Phạm Hùng, uỷ viên Bộ
Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Thượng tướng Trần Văn
Trà, Phan Văn Đáng, uỷ viên Trung ương Đảng ở Nam Bộ và các đồng
chí Võ Chí Công, uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư khu uỷ Khu 5,
Thượng tướng Chu Huy Mân ở Khu 5 lần lượt đến Hà Nội.
Bộ Chính trị làm việc riêng với các đồng chí phụ trách từng chiến
trường, nghe báo cáo tình hình mọi mặt. Trong các ngày từ 3 đến 5-12-
1974, Thường trực Quân uỷ Trung ương lần lượt nghe các đồng chí ở
Nam Bộ và Khu 5 báo cáo về ý định và kế hoạch tác chiến".
Đây là những cuộc họp chuẩn bị cho Hội nghị hết sức quan trọng
của Bộ Chính trị kéo dài từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975.
Dự Hội nghị, ngoài các đồng chí trong Bộ Chính trị, còn có các đồng
chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường, các đồng chí trong Quân uỷ
Trung ương và các đồng chí Phó Tổng Tham mưu trưởng phụ trách tác
chiến.
Tất cả các đồng chí trong Bộ Chính trị đều lần lượt phát biểu ý kiến
và thảo luận rất kỹ. Cần nói rằng trong thời gian 20 ngày của Hội nghị,
việc nhận định tình hình cũng như những ý kiến của Bộ Chính trị có sự
phát triển từng tuẩn, ngày càng rõ nét những ý định chiến lược lớn lao
và ngày càng thể hiện một quyết tâm sắt đá.
Giữa lúc Bộ Chính trị đang họp thì một tin vui lớn từ miền Nam đưa
tới: bộ đội chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối hợp với lực lượng của
địa phương mở chiến dịch đường số 14-Phước Long giành thắng lợi lớn.
Trong hơn 20 ngày ta đã diệt và bắt trên 3.000 tên địch, thu 3.000 súng
các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long. Đây là
tỉnh đầu tiên ở miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
Chiến dịch đường số 14-Phước Long thắng lớn có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Chiến thắng này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân
nguỵ. Quân chủ lực của chúng không còn đủ sức hành quân giải toả quy
mô lớn để lấy lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng mà ta đã
chiếm trên các địa bàn rừng núi và giáp ranh. Chiến thắng này còn cho
thấy rõ hơn về đế quốc Mỹ trong ý đồ và khả năng can thiệp của chúng
vào miền Nam Việt Nam. Điều quan trọng hơn cả là chiến dịch đường số
14-Phước Long thắng to đã nói lên những khả năng mới rất lớn của
quân và dân ta. Chiến thắng đó củng cố thêm quyết tâm chiến lược
được xác định trong Hội nghị Bộ Chính trị và bổ sung cho phương án
giành thắng lợi lớn khi có thời cơ.
Lúc đầu Mỹ hùng hổ cho tàu chở máy bay chạy bằng năng lượng
nguyên tử Intơpraidơ dẫn một lực lượng đặc biệt của hạm đội 7 từ
Philíppin tiến về phía bờ biển Việt Nam; ra lệnh đặt sư đoàn 3 thuỷ quân
lục chiến Mỹ ở Okinawa trong tình trạng báo động khẩn cấp. Bọn hiếu
chiến ở Lầu năm góc doạ ném bom trở lại miền Bắc.
Nhưng rồi cuối cùng Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Slesinhgiơ buộc phải
bỏ qua "sự kiện Phước Long" và tuyên bố: "Đây, chưa phải là một cuộc
tiến công ồ ạt của miền Bắc Việt Nam". Hắn phớt lờ lời kêu gọi thảm
thiết của Thiệu. Đại sứ, Mỹ Matin ở Sài Gòn nói với Thiệu: "Việc yểm hộ
của Mỹ lúc này chưa được phép". Ngày nay Mỹ đã yếu thế đến mức
không thể muốn làm gì thì làm.
Hội nghị Bộ Chính trị phân tích sự suy yếu củạ địch báo hiệu một
thời cơ mới đang đến. Nhưng muốn tạo được thời cơ lớn phải có những
trận đánh tiêu diệt lớn, rung động lớn, làm cho địch bị tiêu diệt và tan
rã lớn.
Tình hình lúc này đối với ta vô cùng thuận lợi. Ở miền Nam có thể
sẽ diễn ra một cuộc khủng hoảng đưa đến một thời cơ lớn cho ta. Nếu
ta đánh mạnh nhất, gọn nhất, nhanh nhất, thì nhất định sẽ dẫn đến sự
sụp đổ của chính quyền Sài Gòn sớm hơn ta dự kiến.
Ngày 8-1-1975, hai ngày sau chiến thắng Phước Long, đồng chí Lê
Duẩn kết luận Hội nghị. Đồng chí nói:
"Hội nghị chúng ta rất phấn khởi, nhất trí cao. Lần này có các đồng
chí ở Nam Bộ và Khu 5 ra dự. Tình hình đã sáng rõ. Chúng ta quyết tâm
hoàn thành kế hoạch hai năm.
Hai năm là ngắn và cũng là dài. Cuộc chiến đấu ở miền Nam được
thực lực mạnh ở miền Bắc dấy lên thành sức mạnh cả nước. Bây giờ
quân Mỹ đã rút ra rồi, quân đội ta đã có sẵn ở trong Nam, quần chúng
lại có khí thế. Đây là nội dung của thời cơ. Ta phải nắm vững và đẩy
mạnh đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đó là
đặc điểm Việt Nam.
Ở miền Nam ta có sức mạnh mới: giành thế chủ động trên chiến
trường, tạo được thế liên hoàn từ Trị Thiên vào đến đồng bằng sông
Cừu Long. Ta đã tạo được quả đấm mạnh. Ở Khu 8, Khu 9, quả đấm
cũng đang hình thành và phát triển. Ta tạo được bàn đạp quanh đô thị;
đô thị có phong trào quần chúng của ta, thế giới ủng hộ ta".
Sau khi phân tích tình thế suy yếu của địch, đồng chí
Lê Duẩn nói tiếp: "Ta phải giáng đòn chiến lược trong năm 1975. Ở
Nam Bộ ta phải tạo thế liên hoàn trong toàn miền, áp sát vào Sài Gòn
hơn nữa, tiêu diệt quân chủ lực địch nhiều hơn nữa, làm cho các địa
phương có sức bung ra khi có thời cơ. Còn ở đồng bằng sông Cửu Long,
ta phải áp sát vào Mỹ Tho hơn nữa. Chúng ta đồng ý năm nay mở đầu
bằng đánh Tây Nguyên".
Đồng chí chỉ tấm bản đồ treo phía sau lưng nói:
"Cần đánh mở ra ở Buôn Ma Thuột và Tuy Hoà. Ở Khu 5 ta phải giải
phóng từ Bình Định trở ra. Ở Trị Thiên, ta phải làm chủ từ Huế đến Đà
Nẵng. Thắng lợi lớn như vậy thì làm cho so sánh lực lượng thay đổi lớn.
Phải đánh liên tục đến mùa mưa, tạo ra những thắng lợi dồn dập. Ta
đánh mạnh, địch có nguy cơ tan rã nhanh hơn. Đánh ở vòng ngoài đô
thị thì ta phải đập tan quân chủ lực địch. Khi vào đô thị, ta phải đập nát
đầu não của địch. Miền Bắc phải bảo đảm đầy đủ về vật chất và kỹ
thuật cho bộ đội. Đây là nhân tố cơ bản để giành thắng lợi.
Bất cứ thời cơ nào ta cũng thắng. Phải xem có cách gì đánh nhanh
hơn nữa. Bộ Tổng Tham mưu cần suy nghĩ nhiều hơn về vấn đề đó".
Hội nghị Bộ Chính trị (18-12-1974-8-1-1975) có ý nghĩa lịch sử,
đánh giá đúng thực chất tình hình, nắm vững quy luật chiến tranh cách
mạng, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để hạ quyết tâm chiến lược
chính xác.
Rõ ràng về cuối Hội nghị, Bộ Chính trị nhấn mạnh nhiều hơn đến
việc cần phải đánh nhanh hơn. Đấy là một mong muốn có căn cứ khoa
học sau khi đã phát hiện thời cơ và nắm lấy thời cơ, nếu bỏ lỡ thời cơ
thì có tội đối với dân tộc.
Kết luận của đồng chí Lê Duẩn được Hội nghị nhất trí hoàn toàn và
biến thành nghị quyết: Chưa bao giờ ta có điều kiện đẩy đủ về quân sự,
chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn thuận lợi như hiện
nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc giữa lúc phong trào ba nước Đông
Dương đang trên đà tiến công mạnh, giành thắng lợi ngày càng to lớn.
Bộ Chính trị nêu quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 1975-1976
đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại
giao làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên
chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn
trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín
muồi tiến hành Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan
rã nguỵ quân, đánh đổ nguỵ quyền từ trung ương đến địa phương,
giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.
Bộ Chính trị còn nhấn mạnh: Ta vẫn đề phòng khả năng Mỹ có thể
can thiệp bằng không quân, hải quân, trong trường hợp quân nguỵ có
nguy cơ sụp đổ lớn và với điều kiện chúng có khả năng kéo dài sự
chống đỡ. Nhưng dù Mỹ có can thiệp như thế nào ta cũng có đầy đủ
quyết tâm và điều kiện để đánh thắng chúng và chúng không thể cứu
vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn.
Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch
chiến lược hai năm 1975-1976: năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công
lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công kích
- Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm, trong kế hoạch năm
1975, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án khác và một phương
hướng hành động cực kỳ quan trọng là: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc
cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Chương 3
Chiến trường quan trọng
Hội nghị Bộ Chính trị vừa bế mạc thì hôm sau, ngày 9-1-1975,
Thường trực Quân uỷ Trung ương họp, có mời thêm các đồng chí Võ Chí
Công, Chu Huy Mân, Hoàng Minh Thảo, Lê Trọng Tấn để quán triệt và
thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị.
Chúng tôi nghe báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu về mục đích, yêu
cầu của Chiến dịch Tây Nguyên. Đang họp thì được tin địch vẫn tiếp tục
điều chỉnh sư đoàn dù để phòng thủ khu vực Đà Nẵng. Như thế là địch
chưa phát hiện được lực lượng và chuẩn bị của ta ở Tây Nguyên.
Đến cuộc họp của Thường trực Quân uỷ, ý định đánh Buôn Ma
Thuột mới thật sự rõ nét. Mọi người đều thấy ý nghĩa quan trọng của
trận đánh vào thị xã này, nhưng cách đánh để thắng cho nhanh thì còn
phải nghiên cứu thực tế tại chỗ mới đi tới quyết định được.
Cuộc họp vừa bắt đầu thì đồng chí Lê Đức Thọ bất ngờ mở cửa vào
và ngồi họp với chúng tôi. Sau chúng tôi hiểu rằng Bộ Chính trị chưa
thật yên tâm vì thấy ý định đánh Buôn Ma Thuột chưa được thể hiện rõ
ràng trong kế hoạch tác chiến, cho nên đã cử đồng chí Lê Đức Thọ đến
tham gia góp ý kiến với chúng tôi là nhất quyết phải đánh Buôn Ma
Thuột. Đồng chí Lê Đức Thọ nói sôi nổi: "Phải đặt vấn đề dứt khoát là
giải phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà
không đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào?".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét