Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Chức năng giám đốc của kiểm toán nhà nước đối với sử dụng vốn ngân sách trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Chức năng giám đốc của kiểm toán nhà nước đối với sử dụng vốn ngân sách trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam": http://123doc.vn/document/1036019-chuc-nang-giam-doc-cua-kiem-toan-nha-nuoc-doi-voi-su-dung-von-ngan-sach-trong-dau-tu-xay-dung-co-ban-o-viet-nam.htm





5
Nhìn chung, các công trình, luận văn và luận án nghiên cứu nêu trên
chủ yếu tập trung phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò nguồn vốn
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong đó đã quan tâm đến việc sử dụng
vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, đã đề xuất được những giải pháp
nhằm phát huy hiệu quả nguồn vốn đầu tư này. Tuy nhiên, vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu có tính chuyên biệt về chức năng của KTNN đối
với sử dụng vốn ngân sách trong xây dựng cơ bản ở Việt nam dưới góc độ
kinh tế chính trị học. Đề tài “Chức năng giám đốc của KTNN đối với sử
dụng vốn ngân sách trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam” mà tác giả
lựa chọn là mới, không trùng với các công trình và bài viết đã được công bố ở
nước ta cho đến nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chức năng giám đốc của KTNN
đối với việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư của nhà nước cho xây dựng cơ
bản; phân tích và đánh giá thực trạng việc thực hiện chức năng này ở nước ta
trong thời gian qua; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
hiệu lực thực hiện chức năng này của KTNN trong thời gian tới. Qua đó, góp
phần nhận thức đầy đủ về kiểm toán nói chung, KTNN nói riêng; đồng thời
góp phần vào giải pháp từng bước hoàn thiện kiểm toán nhà nước theo yêu
cầu của công cuộc đổi mới của nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kiểm toán là hoạt động có chức năng, nhiệm vụ
và nội dung hoạt động riêng. Tuy nhiên, trong đề tài này tác giả lựa chọn tập
trung nghiên cứu chức năng giám đốc của KTNN đối với các dự án sử dụng
vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản dưới góc độ kinh tế
chính trị. Những nội dung khác có thể đưa vào sử dụng có nhiệm vụ làm rõ
chức năng của kiểm toán và làm sáng tỏ chủ đề nghiên cứu của luận văn.



6
- Phạm vi nghiên cứu: về không gian trên bình diện cả nước; về thời
gian: từ khi Chính phủ có quyết định thành lập cơ quan KTNN (7/1994),
trong đó chủ yếu từ năm 2001 tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những nguyên lýí của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối và chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nước về kiểm tra, kiểm toán của Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả sử dụng các phương
pháp gồm: phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh, phân tích, tổng hợp tình
hình thực tiễn diễn ra trong xây dựng và thực hiện chức năng kiểm toán Nhà
nước đối với việc sử dụng các nguồn vốn ngân sách nhà nước ở nước ta; đồng
thời, có kế thừa và chọn lọc một số kết quả của các công trình khoa học đã
công bố.
6. Những đóng góp về khoa học của đề tài
- Hệ thống hóa lý luận về chức năng giám đốc của KTNN đối với việc
sử dụng nguồn vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản.
- Phân tích và đánh giá thực trạng việc thực hiện chức năng giám đốc
của KTNN đối với việc sử dụng nguồn vốn này.
- Kiến nghị phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
năng lực thực hiện chức năng giám đốc của KTNN đối với việc sử dụng nguồn
vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văng được kết cấu thành 3 chương.



7
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chức năng giám đốc
Của kiểm toán nhà nước đối với sử dụng vốn ngân sách trong đầu tư xây
dựng cơ bản

1.1. Tài chính nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách
nhà nước
1.1.1. Tài chính nhà nước
1.1.1.1. Đặc điểm của tài chính nhà nước
Trong thực tiễn đời sống xã hội nói chung, biểu hiện của hoạt động tài
chính là hoạt động thu chi bằng tiền được gắn liền với việc tạo lập hoặc sử
dụng các quĩ tiền tệ nhất định. Trên phạm vi nền kinh tế, gắn với sự hoạt động
của các chủ thể trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác nhau có các quĩ tiền tệ
khác nhau được hình thành và sử dụng như: quĩ tiền tệ của các doanh nghiệp;
quĩ tiền tệ các tổ chức bảo hiểm, tín dụng; quĩ tiền tệ của Nhà nước…
Gắn với chủ thể Nhà nước, các quĩ tiền tệ mang tính đặc thù là việc tạo
lập và sử dụng chúng gắn liền với quyền lực chính trị của nhà nước và việc
thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước. Nói cách khác, các quĩ
tiền tệ của nhà nước là tổng số các nguồn lực tài chính đã được tập trung vào
trong tay nhà nước, thuộc quyền nắm giữ của nhà nước và được nhà nước sử
dụng cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Quĩ tiền tệ của
nhà nước được xem như là sự tổng hợp của các quĩ tiền tệ chung của nhà
nước và quĩ tiền tệ của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Các quĩ tiền
tệ chung của nhà nước bao gồm: quĩ NSNN, một số quĩ tiền tệ thuộc ngân
hàng nhà nước trung ương (quĩ dự trữ ngoại tệ, quĩ điều hoà lưu thông tiền tệ,
quĩ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại…), các quĩ có nguồn
gốc chủ yếu từ NSNN như: quĩ dự trữ nhà nước, quĩ hộ trợ phát triển và một
số quĩ có mục tiêu khác (quĩ bình ổn giá, quĩ quốc gia giải quyết việc làm, quĩ
phủ xanh đất trống đồi núi trọc…). Các quĩ này thường được gọi là các quĩ tài
chính nhà nước ngoài NSNN.



8
Quá trình hình thành và sử dụng các quĩ tiền tệ của nhà nước kể trên
chính là quá trình nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính thông qua
các hoạt động thu, chi bằng tiền của tài chính nhà nước. Các hoạt động thu,
chi bằng tiền đó là mặt biểu hiện bề ngoài của tài chính nhà nước, còn các quĩ
tiền tệ nhà nước nắm giữ là biểu hiện nội dung vật chất của tài chính nhà
nước. Từ những phân tích trên có thể hiểu tài chính nhà nước là tổng thể các
hoạt động thu, chi bằng tiền do nhà nước tiến hành bằng cách tạo lập và sử
dụng các quĩ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ các chức năng kinh tế, xã
hội của nhà nước; nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước
với các chủ thể khác trong xã hội nảy sinh trong quá trình nhà nước tham gia
phân phối các nguồn tài chính.
Quan niệm nêu trên vừa chỉ ra mặt cụ thể, hình thức bên ngoài - nội
dung vật chất của tài chính nhà nước là các quĩ tiền tệ của nhà nước, vừa vạch
rõ bản chất bên trong - nội dung kinh tế - xã hội của tài chính nhà nước là các
quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình nhà nước phân phối nguồn tài chính
để tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ của nhà nước.
Tài chính nhà nước có các đặc điểm:
Một là, nguồn tạo lập tài chính nhà nước bao gồm các quĩ tiền tệ thuộc
quyền nắm giữ và sử dụng của nhà nước. Nó là một lượng nhất định của
nguồn tài chính xã hội đã được tập trung vào tay nhà nước, hình thành thu
nhập của nhà nước. Nguồn thu của tài chính nhà nước được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau có cả trong nước và ngoài nước, từ nhiều lĩnh vực
hoạt động khác nhau kể cả sản xuất, lưu thông, phân phối, nhưng nét đặc
trưng là luôn gắn chặt với kết quả của hoạt động kinh tế trong nước và sự vận
động của các quan hệ giá cả, thu nhập, lãi suất… Thu nhập của tài chính nhà
nước có thể được lấy về bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, có
cả bắt buộc và tự nguyện, có hoàn trả và không hoàn trả, ngang giá và không



9
ngang giá… nhưng nét đặc trưng là luôn gắn liền với quyền lực chính trị của
nhà nước, thể hiện bằng hệ thống pháp luật do nhà nước qui định và mang
tính không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Hai là, xét về tính chất, tài chính nhà nước thuộc sở hữu nhà nước. Nhà
nước là chủ thể duy nhất quyết định việc sử dụng các quĩ tiền tệ của nhà
nước. Việc sử dụng các quĩ tiền này, đặc biệt là ngân sách nhà nước, luôn gắn
liền với bộ máy nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại và phát huy hiệu lực của bộ
máy nhà nước, cũng như thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội mà nhà nước
đảm nhận. Các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia trong từng
thời kỳ phát triển được quyết định bởi cơ quan quyền lực cao nhất của nhà
nước là Quốc hội. Quốc hội cũng là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội
dung, mức độ các thu chi NSNN - quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước
- tương ứng với các nhiệm vụ đã được hoạch định nhằm đảm bảo thực hiện có
kết quả nhất các nhiệm vụ đó.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm về tính sở hữu của tài chính nhà nước có ý
nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền lãnh đạo tập trung thống nhất của
nhà nước, loại trừ sự chia sẻ, phân tán quyền lực trong việc điều hành NSNN.
Nhận thức này cũng cho phép xác định quan điểm định hướng trong việc sử
dụng tài chính làm công cụ điều chỉnh và xử lý các quan hệ kinh tế, xã hội
trong hệ thống các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nảy sinh khi nhà nước
tham gia phân phối các nguồn tài chính thì lợi ích quốc gia, lợi ích toàn thể
bao giờ cũng đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác.
Ba là, chi tiêu tài chính nhà nước là việc phân phối và sử dụng các quĩ
tiền tệ (vốn) của nhà nước. Khác với hoạt động sản xuất kinh doanh ở cơ sở,
tầm vi mô, chi tiêu của tài chính nhà nước không phải là những chi tiêu gắn
liền trực tiếp với các hoạt động sản xuất, kinh doanh mà là những chi tiêu gắn
liền với việc thực hiện các chức năng của nhà nước, tức là gắn liền với việc



10
đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất toàn xã hội - tầm vĩ mô. Mặc
dù hiệu quả của các khoản chi tiêu của tài chính nhà nước trên những khía
cạnh cụ thể vẫn có thể đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng như vay nợ, một
số vấn đề xã hội…, nhưng xét về tổng thể, hiệu quả đó thường được xem xét
trên tầm vĩ mô, nghĩa là hiệu quả của việc sử dụng các quĩ tiền tệ của nhà
nước phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục
tiêu kinh tế, xã hội đã đặt ra mà các khoản chi của tài chính nhà nước phải
đảm nhận. Nhận thức đúng đặc điểm này sẽ giúp cho việc định hướng và có
biện pháp sử dụng các quĩ tiền tệ của nhà nước tập trung vào việc xử lý các
vấn đề của kinh tế vĩ mô với yêu cầu là chi phí bỏ ra là thấp nhất mà lợi ích
đem lại là cao nhất.
Bốn là, phạm vi hoạt động của tài chính nhà nước được gắn liền với bộ
máy nhà nước, phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước và vai
trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế. Phạm vi ảnh
hưởng của tài chính nhà nước rất rộng rãi, có thể tác động tới các hoạt động
khác nhau của mọi lĩnh vực kinh tế xã hội. Thông qua phân phối các nguồn
tài chính, tài chính nhà nước có khả năng động viên, tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia vào tay nhà nước từ mọi lĩnh vực hoạt động, từ mọi
chủ thể kinh tế xã hội. Đồng thời, bằng việc sử dụng các quĩ tiền tệ của nhà
nước, tài chính nhà nước có khả năng tác động tới mọi lĩnh vực hoạt động
kinh tế, xã hội đạt tới những mục tiêu đã định. Nhận thức đặc điểm này có ý
nghĩa quan trọng trong việc sử dụng tài chính nhà nước, thông qua thuế và chi
tài chính nhà nước, để góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội được đặt
ra trong từng thời kỳ khác nhau của sự phát triển, đặc biệt là chi tài chính nhà
nước để khắc phục những mặt còn hạn chế, tiêu cực và đạt tới những mặt tiến
bộ tích cực là có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần quyết định trong việc
thực hiện các mục tiêu và yêu cầu cần đạt được của sự phát triển xã hội.



11
Là một bộ phận trong hệ thống tài chính, như các bộ phận khác, tài
chính nhà nước có hai chức năng cơ bản: chức năng phân phối và chức năng
giám đốc.
1.1.1.2. Chức năng của tài chính nhà nước
Như trên đã nêu, tài chính nhà nước có chức năng phân phối và chức
năng giám đốc. Chức năng của tài chính là biểu hiện hai mặt gắn bó chặt chẽ
với nhau, thông qua đó các chủ thể vận dụng để sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực tài chính, coi đó như một công cụ cực kỳ quan trọng nhằm phục vụ
mục đích đề ra trong từng thời kỳ hoạt động tài chính.
Chức năng phân phối của tài chính nhà nước được thực hiện thông qua
việc phân phối lần đầu và phân phối lại các nguồn tài chính trong xã hội nhằm
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước. Trong chức năng này, chủ thể
phân phối là nhà nước với tư cách là tổ chức có quyền lực chính trị, còn đối
tượng phân phối là các nguồn tài chính đã thuộc sở hữu nhà nước hoặc đang
là thu nhập của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội mà nhà nước tham gia
điều tiết.
Chức năng giám đốc của tài chính nhà nước thể hiện ở chỗ thông qua
hoạt động này, nhà nước "giám sát", "đôn đốc", "kiểm tra", "điều chỉnh" hoạt
động tài chính của các chủ thể trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở của chức
năng giám đốc là sự thống nhất giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá
trình hoạt động của Nhà nước và của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân. Bằng việc kiểm tra, kiểm soát sự vận động của các quỹ tiền tệ, nhà
nước có thể biết được tình trạng của nền kinh tế để có giải pháp điều chỉnh.
Nội dung của kiểm tra, kiểm soát vận động của các nguồn tài chính
gồm kiểm tra việc khai thác, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính;
kiểm tra tính cân đối, tính hợp lý của việc phân bổ và kiểm tra tính tiết kiệm,
tính hiệu quả của việc sử dụng chúng.



12
Kiểm soát quá trình vận động của các nguồn tài chính được thực hiện
thông qua đồng tiền và dựa vào kế hoạch, nó được tiến hành trong suốt quá
trình kế hoạch hoá tài chính từ khi xây dựng, xét duyệt, quyết định thực hiện
kế hoạch và cả sau khi kế hoạch đã thực hiện xong. Việc kiểm tra, kiểm soát
được thực hiện ở trạng thái tĩnh, trong phạm vi nhất định và thường mang tính
chất độc quyền.
Mục tiêu chức năng giám đốc của tài chính nhà nước là đảm bảo cho
việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ của nhà nước được đúng
hướng, hợp lý, đạt kết quả tối đa nhất đáp ứng mục tiêu kế hoạch. Qua kiểm
tra mà phát hiện ra những bất hợp lý của quá trình phân bổ để có thể hiệu
chỉnh lại theo các mục tiêu và yêu cầu đã định. Thông qua chức năng này,
Nhà nước điều chỉnh việc phân phối các nguồn lực tài chính của nhà nước,
quá trình tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ tại các đơn vị kinh tế, đảm bảo cho
các hoạt động thu, chi bằng tiền được thể hiện theo đúng qui định của chính
sách, pháp luật.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam, Đảng ta
xác định phải đổi mới công cụ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, trong đó
phải đổi mới cụng tỏc kế hoạch theo hướng kết hợp thị trường với kế hoạch,
nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế - xó hội, tăng cường công tác thông tin về kinh tế - xó hội
trong nước và quốc tế, cụng tỏc thống kờ ứng dụng rộng rói cỏc thành tựu
khoa học - cụng nghệ trong cụng tỏc dự bỏo, kiểm tra tỡnh hỡnh thực hiện ở
cấp vĩ mụ và doanh nghiệp. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng chi ngân
sách nhà nước, phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính
quyền địa phương trong việc thu, chi ngân sách địa phương.
Để thực hiện được yêu cầu này, một trong những giải pháp quan trọng
là phải tăng cường chức năng giám đốc của tài chính nhà nước. Chức năng



13
này đòi hỏi phải đảm bảo tính minh bạch và cụng khai về tài chớnh, coi đó là
một trong những tiền đề quan trọng, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường được
phát triển theo định hướng XHCN, đồng thời tạo điều kiện cần thiết để thúc
đẩy tiến trỡnh hội nhập với cỏc nước trong khu vực và thế giới. Xu hướng
khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đũi hỏi phải coi trọng chức năng
giám đốc của tài chính nhà nước để các thông tin tài chính trước khi công bố
cho các đối tượng sử dụng được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng, tức là phải
đảm bảo độ tin cậy về những dữ liệu thông tin đó.
Do tài chính nhà nước là bộ phận rất quan trọng trong hệ thống tài
chính của nền kinh tế quốc dân, bộ phận có vai trò chi phối, chủ đạo trong hệ
thống đó, nên việc quản lý tốt nguồn thu và chi tiêu của bộ phận này là rất cần
thiết. Theo các lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường, thì việc chi tiêu đúng
mục đích và có hiệu quả nguồn tài chính nhà nước có vai trò giống như đầu tư
của các doanh nghiệp đối với sự “khuếch đại” tăng trưởng tổng giá trị sản
lượng của nền kinh tế. Điều này có nghĩa là một nền kinh tế muốn phát triển
với nhịp độ cao, bền vững, tiết kiệm, hiệu quả và an toàn thỡ một trong những
giải pháp là nhất thiết coi trọng chức năng giám đốc của tài chính nhà nước.
Tài chính nhà nước phải đưa ra được các công cụ cần thiết để làm tốt chức
năng của mình. Theo kinh nghiệm các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển, thì một trong những công cụ quan trọng để thực hiện chức năng giám
đốc của tài chính nhà nước là kiểm toán nhà nước.

1.1.2. Đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
- Đầu tư xây dựng cơ bản:
Đầu tư nói chung theo nghĩa rộng, là một hoạt động đầu tư, nó là sự hy
sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu về một kết
quả lớn hơn trong tương lai thông qua việc sử dụng các nguồn lực đã bỏ ra để
có kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền vốn, tài nguyên thiên nhiên, sức lao



14
động và công nghệ. Những kết quả thu được là sự tăng thêm các tài sản tài
chính, tài sản vật chất và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng
suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm
những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền sản
xuất xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng
để đạt được kết quả đó.
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước của Việt Nam xác định: “Đầu
tư là việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh để thành lập cơ sở sản xuất, kinh
doanh; mở rộng qui mô, nâng cao năng lực sản xuất; nghiên cứu phát triển;
đổi mới công nghệ” [32].
Đầu tư XDCB là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, đó là
việc chủ kinh tế bỏ vốn để tiến hành các hoạt động XDCB nhằm tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định, phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế, xã hội. Xây dựng cơ bản là việc tiến hành tái sản xuất giản đơn
và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định có tổ chức sản xuất và không có tổ
chức sản xuất ở các ngành kinh tế thông qua việc xây dựng mới, xây dựng mở
rộng, xây dựng lại, hiện đại hóa hay khôi phục các tài sản cố định.
Do là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, nên đầu tư XDCB
có đầy đủ các đặc điểm và tính chất của hoạt động đầu tư nói chung. Ngoài ra,
nó còn có những nét đặc thù của ngành XDCB.
Một là, sản phẩm của đầu tư là những công trình xây dựng như nhà
máy, công trình công cộng, nhà ở, cầu đường, bến cảng , đó là những tài sản
có tính cố định, nơi sản xuất đồng thời là nơi tiêu thụ sản phẩm. Tài sản cố
định sẽ chịu tác động rất lớn của các điều kiện về địa lý, địa hình, môi trường
kinh tế - xã hội nơi tạo ra nó. Sản phẩm XDCB chịu ảnh hưởng trực tiếp của
khí hậu, thời tiết và các điều kiện tự nhiên khác.
Hai là, thời gian XDCB và thời gian tồn tại của sản phẩm XDCB tương
đối lâu dài. Với đặc điểm này, nếu đầu tư càng bị ế đọng vốn thì sẽ càng thiệt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét