1.2.2. Tác động của kinh tế Việt Nam đến các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động.
Tác động của nền kinh tế trong nước đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động có phần khác so với tác động của nền kinh tế thế giới hay nền
kinh tế nước nhập khẩu lao động. Vì các nền kinh tế tác động trực tiếp đến
cầu về lao động nhập khẩu, còn nền kinh tế trong nước lại tác động trực tiếp
lên nguồn cung lao động cho xuất khẩu. Khi nền kinh tế Việt Nam đi vào suy
thoái, tỉ lệ thất nghiệp trong nước gia tăng dẫn đến nhu cầu về việc làm gia
tăng. Do đó các doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ dễ dàng tìm được lao
động phù hợp để đáp ứng nhu cầu thị trường lao động nước nhập khẩu.
Tuy nhiên tình hình kinh tế trong nước luôn chịu ảnh hưởng của nền
kinh tế thế giới cũng như các nền kinh tế khác. Mặt khác đối với Việt Nam tỉ
lệ thất nghiệp vẫn còn cao ( 4,6% khoảng 4 triệu lao động ), do đó nguồn
cung về lao động trong nước không phải là vấn đề lớn của các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam mà vấn đề ở đây đó là doanh nghiệp tìm được thị trường
hay nhu cầu về lao động phù hợp.
1.3. Tác động của yếu tố pháp luật chính trị đến các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động.
1.3.1. Tác động của chính trị - pháp luật của các nước nhập khẩu lao
động đến doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Hệ thống chính trị được coi là người tạo lập ra các “ sân chơi “ cho các
hoạt đọng kinh tế, với công cụ là hệ thống pháp luật phù hợp. Do đó tác động
của hệ thống chính trị, luật pháp của các nước nhập khẩu lao động đến hoạt
động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động là rất lớn. Nó đảm bảo cho các
doanh nghiệp có các quyền bình đẳng cùng hoạt động. Tuy nhiên khi hệ thống
chính trị bất ổn, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia đó, gây ra tình trạng
thất nghiệp, mất việc làm và cắt giảm lao động ở các doanh nghiệp. Ngoài ra
hệ thống chính trị luật pháp đưa ra những điều luật qui định đối với doanh
nghiệp xuất khẩu lao động nước ngoài, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ hay một
5
qui định mới cũng có thể gây ra tác động lớn đối với một doanh nghiệp xuất
khẩu lao động. Ví dụ như Ngày 2/3/2009, làm việc với đoàn công tác của Bộ
Lao động thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH), đại diện Bộ Nguồn nhân lực
Malaysia cho biết nước này quyết định tạm dừng tiếp nhận lao động nước
ngoài, kể cả lao động Việt Nam, nhằm đảm bảo việc làm cho lao động trong
nước trước tình hình suy thoái kinh tế. Quy định này chỉ áp dụng đối với các
trường hợp đưa lao động mới sang Malaysia làm việc. Hiện Việt Nam có trên
100.000 lao động làm việc tại Malaysia. Số này sẽ không được gia hạn khi hết
hạn hợp đồng.
1.3.2. Tác động của chính trị - pháp luật trong nước đến doanh nghiệp
xuất khẩu lao động.
Một doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như mọi loại hình doanh
nghiệp khác luôn chịu sự chi phối điều hành trực tiếp của thể chế chính trị và
hệ thống pháp luật trong nước. Ngoài ra đây là một lĩnh vực kinh doanh rất
nhạy cảm vì nó kinh doanh dịch vụ hàng hóa sức lao động và được Đảng và
nhà nước rất quan tâm.
Hệ thống pháp luật tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp
kinh doanh. Ngoài ra việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là
một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo việc làm, tăng thu
nhập, nâng cao trình độ tay nghề, tiếp cận công nghệ tiên tiến cho người lao
động. Theo đó, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt Nam có đủ
điều kiện đi làm việc ở nước ngoài; bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của người
lao động đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ đầu tư mở thị trường lao động mới,
thị trường có thu nhập cao, thị trường tiếp nhận nhiều người lao động; hỗ trợ
đào tạo cán bộ quản lý, dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động … Do đo các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lao động cũng được nhà nước quan tâm
và hỗ trợ trong việc giúp các doanh nghiệp trong việc gặp gỡ hợp,hợp tác với
đối tác nước ngoài, hoặc giải quyết các tranh chấp thông qua cơ quan quán lý
vế xuất khẩu lao động và đại sứ quán của Việt Nam ở các nước.
6
Tuy nhiên các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu vẫn còn gặp khó
khăn trong việc giả quyết các thủ tục hành chính như các thủ tục liên quan
đến vấn đưa người ra nước ngoài đặc biệt vấn đề thủ tục xin cấp visa.
1.4. Tác động của yếu tố văn hóa đến các doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu lao động.
Người lao động Việt Nam khi đi lao động nước ngoài sẽ làm việc trực
tiếp với người bản địa, luôn có sự tiếp xúc và trao đổi với họ. Nếu có sự khác
nhau về văn hóa như tập quán sinh hoạt, quan niệm về trách nhiệm công việc,
quan niệm về giá trị đạo đức sẽ ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa người
lao động và người thuê lao động. Nếu mâu thuẫn không thể dung hòa rất có
thể người lao động sẽ bỏ trốn ra ngoài hoặc bị người thuê lao động chấm dứt
hợp đồng. Gây ra ảnh hưởng không tốt cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động,
vì họ phải giải quyết mọi vấn đề liên quan đến lao động trong thời hạn hợp
đồng.
Yếu tố văn hóa là một phần nguyên nhân mà thị trường xuất khẩu lao
động của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu là các nước trong khu vực Đông
Nam Á và Châu Á. Ví dụ như 9 tháng đầu năm 2007, cả nước đưa được
62760 lao động sang nước ngoài. Trong đó đông nhất là Malaysia với 21313
người (chiếm 33,96%) thứ hai là thị trường Đài Loan với 16554 người
(chiếm 26,38%) tiếp đó là Hàn Quốc với 8536 người (chiếm 13,60%).
Do đó vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động là tìm
hiểu kĩ nền văn hóa của các nước nhập khẩu lao động trước khi đưa lao động
sang làm việc, vì chi phí cho việc giải quyêt các vấn đề liên quan đến các lao
động bỏ việc hay đền bù cho lao động là rất lớn, không những thế nó còn ảnh
hưởng đến uy tín của doanh nghiệp.
7
Chương 2: Phân tích thực trạng của Công ty Cổ
phần Đầu tư và Thương mại CTM trong giai đoạn
2006 – 2009.
2.1. Giới thiệu về Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại CTM.
Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại CTM được cổ phần hoá từ bộ
phận doanh nghiệp nhà nước, thuộc Công ty Đầu tư Xây dựng và Xuất nhập
khẩu Việt Nam - Constrexim Holdings (nay là Tổng Công ty cổ phần Đầu tư
Xây dựng và Thương mại Việt Nam - Constrexim Holdings) theo Quyết định
số: 1364/QĐ- BXD của Bộ trưởng Bộ xây dựng ngày 25 tháng 8 năm 2004.
Địa chỉ đăng ký: 39 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Địa chỉ giao dịch: 116 đường Cầu Diễn, Từ Liêm, Hà Nội
Lĩnh vực kinh doanh chính
1. Đầu tư
2. Kinh doanh thương mại và xuất nhập khẩu
3. Đào tạo và giáo dục định hướng
4. Xuất khẩu lao động
2.2. Thực trạng xuất khẩu lao động của Công ty Cổ phần Đầu tư và
Thương mại CTM giai đoạn 2006 – 2009.
Xuất khẩu lao động trong những năm gần đây là một lĩnh vực kinh
doanh mới được chú trọng nên đã gặp không ít khó khăn. Tuy vậy, qua
kết quả đạt được thì xuất khẩu lao động đã mang lại một mức lợi nhuận rất
lớn, lớn hơn rất nhiều lần so với các hoạt động khác dù doanh thu là nhỏ
hơn. Có được như vậy là do hoạt động xuất khẩu lao động không những
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động mà còn giúp người lao động
mang lại một nguồn thu nhập lớn từ các nước phát triển hơn. Ngày càng có
nhiều người lao động đi xuất khẩu lao động ra nước ngoài, vì vậy Contrexim-
TM đã có được một kết quả đáng kể. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu
sau:
8
Bảng 5: Kết quả hoạt động xuất khẩu lao động của công ty Contrexim- TM
Đơn vị : Triệu
đồng
Số TT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
1 Doanh thu 510 865 707 830
2 Lợi nhuận 201 386 339 404
3 Chi phí 309 479 368 426
4 Nộp NSNN 46 138 98 124
Nguồn: Phòng Hành chính tổng hợp Công ty Contrexim-TM
Qua bảng số liệu trên cho thấy:
Về doanh thu: Năm 2 0 0 6 Công ty đạt 510 triệu đồng đến năm
2007 tăng so với năm 2006 là 69,60%, tương ứng với số tiền là 355 triệu
đồng. Đây là mức tăng đáng kể so với năm trước do Công ty đã nhận thấy
tầm chiến lược và đẩy mạnh hoạt động này. Năm 2008, có xu hướng giảm về
doanh thu so với năm 2007 là 18,25%, tương ứng với số tiền là 158 triệu
đồng. Có sự giảm sút này là do cuộc khủng hoảng về kinh tế thế đã ảnh
hưởng trực tiếp đến các nước tiếp nhận lao động ở nước ngoài. Nhu cầu tiếp
nhận lao động nước ngoài ở một số nước giảm xuống do nhiều doanh nghiệp
bị phá sản, thu hẹp sản xuất. Còn tại các thị trường trọng điểm như Đài
Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, nhiều ngành nghề đã bị lao động các nước khác
chiếm lĩnh.
Sau biến động kinh tế của năm 2008 thì năm 2009 doanh thu lại tăng.
Doanh thu 2009 tăng so với 2008 là 17,39% tương ứng với số tiền là 123 triệu
đồng.
Về lợi nhuận: Song song với sự gia tăng của doanh thu thì lợi
nhuận cũng tăng qua các năm, chỉ có năm 2008 có giảm so với năm 2007 do
doanh thu giảm, đến năm 2009 lại có sự tăng trở lại.
Về chi phí: Cùng với sự tăng, giảm của doanh thu và lợi nhuận qua các
năm, chi phí cũng có sự thay đổi tương ứng. Năm 2006 chi phí là 3 0 9
triệu đồng; năm 2007 là 479 triệu đồng; đến năm 2008 giảm xuống 368 triệu
9
đồng; năm 2009 tăng lên 426 triệu đồng.
Về nộp ngân sách Nhà nước: xuất khẩu lao động là hoạt động đã đóng
góp cho Ngân sách Nhà nước một mức khá cao trong các năm 2007, 2009.
Năm 2006 chỉ đạt 46 triệu đồng, năm 2007 là 138 triệu đồng. Đến năm 2008
có giảm xuống do doanh thu của hoạt động này giảm, còn 98 triệu đồng.
Năm 2009 do doanh thu tăng nên mức nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng
lên tới 124 triệu đồng.
Mặc dù năm 2008 có sự biên động kinh tế làm doanh thu, lợi nhuận
và nộp ngân sách Nhà nước từ hoạt động này đều giảm đáng kể, Nhưng qua
năm 2009 thì lại có sự tăng trưởng. Điều đó cho thấy có sự cố gắng rất lớn
của cán bộ công nhân viên có trình độ, kinh nghiệm và việc tổ chức các khâu
từ nghiên cứu thị trường đến hoạt động xuất khẩu lao động có khoa học, hiệu
quả, không những khắc phục được điểm yếu mà còn vượt qua mọi khó khăn
để đạt được thành quả như vậy.
2. Về số lượng, cơ cấu và thị trường xuất khẩu lao động:
Thị trường xuất khẩu lao động của nước ta đã mở rộng ra với gần 50
quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau. Nhà nước đã xây dựng được một hệ
thống các cơ chế, chính sách tương đối đồng bộ, ổn định và duy trì thị trường
đã có, mở thêm một số thị trường mới và tăng cường quy mô đưa lao động đi
làm việc ở nước ngoài.
Cùng với sự phát triển chung của toàn ngành, xuất khẩu lao động ở
Contrexim- TM đã khai thác hiệu qủa bốn thị trường chính, đó là: Cộng hoà
Palau, Nhật Bản, Đài Loan và Malaixia. Kết quả cụ thể của từng thị trường
được thể hiện qua bảng số liệu sau:
10
Bảng 6: Kết qủa hoạt động xuất khẩu lao động phân theo thị trường:
STT Thị
trường
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Số
người
đi
Doanh
thu
(tr.đ)
Số
người
đi
Doanh
thu
(tr.đ)
Số
người
đi
Doanh
thu
(tr.đ)
Số
người
đi
Doanh
thu
(tr.đ)
1 CH
Palau
35
310
66
380 70 388
73
354
2 Nhật
Bản
12 110
23
285
9
94
1
5
205
3 Đài
Loan
10 90 15 125
23
165 26 189
4 Malaixia 9 75 12 60 14 82
Tổng
cộng
55
510 113 865 114 707 118 830
Nguồn: Phòng Hành chính tổng hợp Công ty Contrexim-TM
Thị trường Palau: Cộng hoà Palau là quần đảo nằm ở bắc Thái
Bình Dương, vĩ tuyến 7,30 bắc, kinh tuyến 134,39 đông, đông nam Phillipin.
Trước đây Palau là lãnh thổ thuộc Mỹ quản lý, nhưng từ năm 1994 là quốc
gia có liên kết tự do với Hoa Kỳ. Palau chưa có luật lao động nhưng có nhiều
lao động nước ngoài. Chính quyền Palau tôn trọng các hợp đồng ký kết giữa
chủ sử dụng lao động với người lao động cũng như bên cung ứng lao động và
lấy hợp đồng làm cơ sở để giải quyết nếu tranh chấp xảy ra.
Từ năm 1999 đến nay, thị trường Palau đã trở thành thị trường truyền
thống của Contrexim - TM. Số người đi qua các năm có sự khác nhau, do đó
doanh thu thay đổi theo số lượng người đi. Tuy nhiên tính doanh thu trên một
người đi là khá ổn định. Riêng năm 2006, doanh thu trên một người là 8,857
triệu đồng có cao hơn so với các năm sau: năm 2007 là 5,757 triệu
đồng/người; năm 2008 là 5,54 triệu đồng/người; năm 2009 là 4,85 triệu
đồng/người. Doanh thu từ thị trường Palau là khá cao và rất ổn định qua các
năm. Vì vậy đây là thị trường mà Contrexim - TM tiếp tục khai thác mạnh
11
trong những năm tới.
Thị trường Nhật Bản: Thị trường này chủ yếu tiếp nhận lao động Việt
Nam đi tu nghiệp và thực tập kỹ thuật (gọi chung là tu nghiệp sinh). Tu
nghiệp sinh Việt Nam sang tu nghiệp tại Nhật Bản theo nhiều ngành nghề
khác nhau, trong đó có lĩnh vực dệt, may, điện tử và xây dựng chiếm tỷ lệ
lớn. Số người đi qua các năm là rất nhỏ, năm 2006 chỉ có 12 người đi đến
năm 2007 tăng lên được 23 người đi và sau lại giảm mạnh. Năm 2008 là 9
người, năm 2009 là 15 người. Doanh thu trên 1 người đi năm 2006 là 9,16
triệu đồng/người, đây là con số khá cao, và nó còn tăng lên năm 2007 là
12,39 triệu đồng, năm 2008 có giàm đôi chút còn 10,44 triệu đồng và năm
2009 tăng trở lại lên tới 13,67 triệu đồng. So với thị trường Palau thì thị
trường Nhật Bản đem lại doanh thu trên một người đi lớn hơn. Tuy nhiên một
khó khăn lớn cho bên xuất khẩu lao động là tại thị trường này số lượng lao
động bỏ trốn là khá cao. Riêng năm 2009 , trong tổng số lao động xuât đi đã
có tới 16 người bỏ trốn. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất
khẩu lao động và uy tín của Công ty với phía đôí tác. Trong thời gian tới, việc
ổn định thị trường Nhật Bản đang là một thử thách lớn cho ngành xuất khẩu
lao động Việt Nam nói chung và xuất khẩu lao động của Contrexim - TM nói
riêng.
Thị trường Đài Loan: Bắt đầu từ năm 2001, Contrexim - TM mới
xuất khẩu lao động sang Đài Loan. Đây là thị trường có một số thuận lợi cơ
bản đối với lao động Việt Nam:
◊ Môi trường sống và làm việc rất tốt, phong tục tập quán có nhiều nét
tương đồng với Việt Nam, vị trí địa lý không xa.
◊ Cơ cấu ngành nghề đa dạng và có nhu cầu lao động ở mọi lĩnh vực.
◊ Thu nhập của người lao động khá cao so với khu vực khác.
Từ các lợi thế đó mà Contrexim - TM đã có được số lượng người đi
đáng kể. Năm 2006 là 10 người đi, đem lại doanh thu 90 triệu đồng. Bình
quân doanh thu trên 1 người đi là 9 triệu đồng/người. Năm 2007 là 15 người
12
đi, với doanh thu là 125 triệu đồng, bình quân là 8,33 triệu đồng/người. Năm
2008 có 23 người đi, với doanh thu là 165 triệu đồng, bình quân là 7,17 triệu
đồng/người. Năm 2009 có 26 người đi và đạt doanh thu 189 triệu đồng, bình
quân 7,27 triệu đồng/người.
Tuy doanh thu trên 1 người không cao, nhưng với số lượng người đi
tăng đều qua các năm thể hiện nhu cầu thị trường này khá ổn định. Điều đó
cho thấy, việc tiếp tục khai thác thị trường này là tất yếu.
Thị trường Malaixia: Đây là thị trường mới của Contrexim - TM. Đến
năm 2007 mới có 9 lao động được đưa đi làm viêc tại thị trường này, đem lại
doanh thu là 75 triệu đồng. Tính ra doanh thu bình quân trên 1 lao động đi là
8,33 triệu đồng. Malaixia là thị trường dễ tính, tương đối phù hợp với lao
động Việt Nam, đặc biệt là lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, đòi hỏi tay
nghề không cao. Tuy vậy thị trường xuất khẩu lao động sang Malaixia mới
nổi lên nhưng tiền lương thấp so với các nước khác có nhận lao động Việt
Nam.
Qua việc phân tích kết quả từ hoạt động xuất khẩu lao động trên chúng
ta có thể nhận thấy hoạt động xuất khẩu lao động có những ưu điểm nhất định:
Thứ nhất, xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất
xã hội: nói xuất khẩu lao động thực chất là xuất khẩu sức lao động. Trong khi
đó, sức lao động lại gắn bó chặt chẽ với người lao động, không tách rời
khỏi người lao động. Vì vậy, làm tốt công tác xuất khẩu lao động không
những giải quyết vấn đề kinh tế trước mắt mà đồng thời giải quyết vấn đề xã
hội lâu dài.
Thứ hai, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế: ở nhiều nước
trên thế giới, xuất khâủ lao động đã là một trong những giải pháp quan trọng
thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu ngoại tệ bằng
hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lơị ích khác.
Việt Nam với dân số đông, đứng thứ 13 trên thế giới, số người trong
độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn, nền kinh tế phát triển thấp so với các nước
13
khác thì xuât khẩu lao động là con đường đúng đắn nhất, một mặt giải quyết
công ăn việc làm, mặt khác mang lại một mức thu nhập đáng kể cho người
dân và tăng mức đóng góp vào GDP/đầu người của toàn xã hội. Từ đó giải
quyết được rất nhiều vướng mắc trong nền kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay.
Ngoài các ưu điểm nói trên thì hoạt động xuất khẩu lao động còn có
nhiều hạn chế, đó là những rủi ro mà hoạt động này gặp phải:
Một là, rủi ro từ phía đối tác: Có trường hợp đối tác khó khăn về vốn,
thiếu việc làm, chậm trả lương cho người lao động, thiếu am hiểu hoặc
không tuân thủ luật pháp, ỷ thế " ông chủ" để gây sưc sép trong việc thực
hiện hợp đồng lao động, làm khó dễ cho người lao động Điều này đã dẫn
đến việc bên cung ứng lao động phải tốn kém rất nhiều để giải quyết các vụ
việc đó.
Hai là, rủi ro từ phía người lao động: Thực tế cho thấy bên cung
ứng lao động đã từng bị thất thu nặng nề do một bộ phận không nhỏ
lao ddộng ra nước ngoài làm việc không thực hiện đúng thoả thuận và
cam kết, đã tự ý bỏ hợp đồng trước thời hạn, tìm nơi làm việc cho chủ
khác. Bên cung ứng lao động vừa bị đối tác phạt tiền, vừa mất đi khoản
phái dịch vụ được thu theo quy định của Nhà nước.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét