Hình 2.2: Ngyên tử helium
Mỗi proton tích điện dương, được định nghĩa là +1 đơn vị tích điện. Một
electron có điện tích âm bằng và trái dấu với điện tích của proton; vì vậy
điện tích của electron là -1 đơn vị. Neutron, đúng như tên nó phản ảnh,
không tích điện vì vậy điện tích của nó là 0 đơn vị. Các điện tích trái dấu
(+/-) thì hút nhau còn các điện tích cùng dấu (+/+ hay -/-) thì đẩy nhau. Các
nguyên tử đều trung hòa về điện: Số lượng proton trong một nguyên tử bằng
với số lượng electron.
Một nguyên tố được cấu tạo nên chỉ từ một loại nguyên tử
Một nguyên tố là một chất tinh khiết chỉ chứa một loại nguyên tử. Nguyên tố
Hydrô chỉ chứa một loại nguyên tử hydrô; nguyên tố sắt chỉ chứa các
nguyên tử sắt. Nguyên tử của mỗi nguyên tố có những đặc tính hoặc tính
chất nhất định phân biệt chúng với các nguyên tử của nguyên tố khác. Hơn
100 nguyên tố tìm thấy trong vũ trụ được sắp xếp trong bảng tuần hoàn
(Hình 2.3). Các nguyên tố này được tìm thấy với trữ lượng khác nhau. Các
ngôi sao có rất nhiều Hydrô và Hêli. Đất của trái đất và ở những hành tinh
gần đó chứa gần một nửa là Oxy, 28% silicon, 8% nhôm, 2-5% cho mỗi một
nguyên tố Natri, Magiê, Kali, Canxi và sắt và chưa một lượng ít hơn nhiều
các nguyên tố khác.
Khoảng 98% trọng lượng của mọi cơ thể sống (vi khuẩn, củ cải hay con
người) đều được tạo nên từ chỉ sáu nguyên tố: Carbon, hydro, Nitơ, oxy,
phốt pho và lưu huỳnh. Hóa tính của sáu nguyên tố này sẽ là mối quan tâm
hàng đầu của chúng ta ở đây, nhưng các nguyên tố khác không phải không
quan trọng. Ví dụ Na và K quan trọng đối với chức năng thần kinh; Ca có
thể hoạt động như một tín hiệu sinh học; iod là thành phần của một loại
hormone quan trọng; và cây cần Magiê như một phần của lục sắc tố
5
(chlorophyll) và molybdenum để chuyển hóa N vào các hợp chất sinh học có
ích.
Hình 2.3: Hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học các nguyên tố được xắp
xếp theo đặt tính vật lý và hóa học. 1-92 là các nguyên tố tự nhiên, các
nguyên tố từ 93 trở về sau được tạo ra trong phòng thí nghiệm
Số lượng proton quyết định loại nguyên tố
Một nguyên tố được phân biệt với một nguyên tố khác bằng số lượng proton
ở mỗi nguyên tử của nó. Con số này không bao giờ thay đổi và được gọi là
6
số nguyên tử. Một nguyên tử Heli có 2 proton và một nguyên tử oxy có 8
proton; như vậy số nguyên tử của hai nguyên tố này lần lượt là 2 và 8.
Cùng với một số lượng proton xác định, mỗi nguyên tố ngoại trừ Hydro có
một hoặc một vài neutron trong nhân của nó. Số khối của một nguyên tử là
tổng số proton và neutron trong nhân của nó. Nhân của Heli chứa 2 proton
và 2 neutron; oxy có 8 proton và 8 neutron. Vì vậy Heli có số khối là 4 và
oxy có số khối là 17. Số khối có thể coi là trọng lượng của nguyên tử tính
theo đơn vị Dalton.
Mỗi nguyên tố có ký hiệu hóa học gồm một hoặc hai chữ cái riêng. Ví dụ H
là ký hiệu của Hydrô, He là ký hiệu của Heli và O là ký hiệu của Oxy. Một
số ký hiệu có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác: Fe (từ tiếng Latin ferrum) ký
hiệu cho sắt, Na (Latin là natrium) ký hiệu cho Natri, và W (Tiếng Đức,
Wolfram) ký hiệu cho Von-fram.
Trong các sách, ngay trước ký hiệu cho một nguyên tố, số nguyên tử được
viết ở phía dưới bên trái và số khối được viết ở phía trên bên trái. Vì vậy
hydro, carbon và oxy được viết lần lượt như sau H
1
1
, C
12
6
, O
16
8
,
Các đồng vị khác nhau về số neutron
Các nguyên tố có thể có nhiều hơn một dạng nguyên tử. Các đồng vị của
cùng một nguyên tố đều có cùng một số proton xác định nhưng khác nhau về
số neutron trong nhân nguyên tử.
Trong tự nhiên nhiều nguyên tố tồn tại ở nhiều dạng đồng vị. Các đồng vị
của Hydro ở Hình 2.4 có các tên riêng, nhưng đồng vị của hầu hết các
nguyên tố không có tên riêng. Ví dụ đồng vị trong tự nhiên của Carbon là
12
C,
13
Cvà
14
C(được đề cập dưới tên gọi Carbon 12, Carbon 13 và Carbon
14). Hầu hết nguyên tử Carbon đều là
12
C, khoảng 1,1% là
13
C và chỉ một
phần rất nhỏ là
14
C. Một khối lượng nguyên tử của một nguyên tố, tức trọng
lượng nguyên tử
*
là trung bình số khối của một mẫu đại diện các nguyên tử
của nguyên tố đó, với tất cả các đồng vị theo tỉ lệ của chúng thường gặp. Do
đó trọng lượng nguyên tử của Carbon được tính là 12,011.
Một số đồng vị, gọi là đồng vị phóng xạ, không bền và tự phát ra năng lượng
dưới dạng các phóng xạ α (alpha), β (beta) hay γ (gamma) từ nhân nguyên
tử. Sự phân rã phóng xạ như vậy biến nguyên tử ban đầu thành một nguyên
tử khác, thường là một nguyên tố khác. Ví vụ carbon-14 mất một hạt β (thật
ra là một electron) để tạo nên
14
N. Các nhà Sinh vật và Vật lý có thể kết hợp
7
các đồng vị phóng xạ vào các nguyên tử và sử dụng phóng xạ phát ra như
một dấu hiệu để xác định vị trí của những phân tử này hoặc xác định những
thay đổi mà phân tử này đang trải qua trong cơ thể (Hình 2.5). Ba đồng vị
phóng xạ được sử dụng phổ biến theo cách này là
1
H (tritium),
14
C (carbon-
14) và
32
P (phốtpho 32). Ngoài những ứng dụng này các đồng vị phóng xạ
còn được sử dụng để định tuổi các hóa thạch (xem chương 22).
Mặc dù đồng vị phóng xạ có ích cho các thí nghiệm và trong Y học, chỉ một
liều thấp phóng xạ của chúng có khả năng hủy hoại tế bào và các phân tử.
Chúng ta biết rất rõ các tác dụng tàn phá của các vũ khí hạt nhân cũng như
những lo ngại về sự hủy hoại các sinh vật từ các đồng vị sử dụng trong nhà
máy điện hạt nhân. Trong Y học, phóng xạ γ từ
60
Co (Cobalt 60) được sử
dụng để phá hủy hoặc giết các tế bào ung thư.
Trong khi bàn về các đồng vị và tính phóng xạ, chúng ta đã tập trung vào hạt
nhân nguyên tử, nhưng nhân không đóng vai trò trực tiếp trong khả năng kết
hợp của nguyên tử với các nguyên tử khác. Khả năng này được quyết định
bởi số lượng và sự phân bố của các electron. Trong các phần tiếp theo chúng
ta sẽ mô tả một ố tính chất và cách thức hoạt động hóa học của electrons.
Cách thức hoạt động của electron quyết định liên kết hóa học
Khi xem xét các nguyên tử, các nhà sinh học chủ yếu quan tâm đến electrons
vì cách thức hoạt động của electron giải thích những biến đổi hóa học xảy ra
như thế nào trong tế bào sống. Những biến đổi này, gọi là phản ứng hóa học
hay đơn giản là phản ứng, là những thay đổi trong thành phần của chất. Số
electron đặc trưng trong mỗi nguyên tử của một nguyên tố quyêt định cách
các nguyên tử của nó phản ứng với các nguyên tử khác. Mọi phản ứng hóa
học liên quan đến sự thay đổi về mối quan hệ giữa các electron với nhau.
Vị trí của một electron trong một nguyên tử tại một thời điểm bât kỳ là
không thể xác định. Chúng ta chỉ có thể mô tả một khoảng không gian trong
nguyên tử trong đó electron có khả năng có mặt. Vùng không gian nơi
electron được tìm thấy ít nhất 90% số lần chính là orbital của electron (Hình
2.6). Trong một nguyên tử, một orbital nhất định có thể được chiếm lĩnh bởi
nhiều nhất là hai electron. Vì vậy bất kỳ nguyên tử nào lớn hơn Heli (số
nguyên tử là 2) phải có các electron trong hai orbital trở lên. Như hình 2.6
cho thấy, các orbital khác nhau có các dạng & hướng đặc trưng trong không
gian. Các orbital lại tạo nên một loạt các lớp vỏ điện tử, hay mức năng lượng
quanh hạt nhân (Hình 2.7). > Lớp vỏ điện tử trong cùng chỉ có một orbital,
8
gọi là orbital s. Hydro (
1
H) có một electron trong lớp vỏ đầu tiên; Heli (
2
He)
có hai. Tất cả nguyên tố khác có hai electron ở lớp vỏ thứ nhất cũng như các
electron trong các lớp vỏ khác.
> Lớp vỏ thứ hai được tạo nên bởi bốn orbital (một orbital s và ba orbital p)
và vì vậy có thể giữ tới tám electron.
Các orbital s chứa đầy electron trước và các electron của chúng có mức năng
lượng thấp nhất. Các vỏ tiếp theo có số các orbital khác nhau, nhưng lớp vỏ
ngoài cùng nhất thường chỉ chứa tám electron. Trong bất kỳ nguyên tử nào,
lớp vỏ điện tử ngoài cùng quyết định cách các nguyên tử kết hợp với các
nguyên tử khác - tức hóa tính của nguyên tử. Khi một lớp vỏ ngoài cùng tạo
bởi bốn orbital chứa tám electron sẽ không có electron nào không cặp đôi
(xem Hình 2.7). Một nguyên tử như vậy bền vững và sẽ không phản ứng với
các nguyên tử khác. Các ví dụ về các nguyên tố bền vững là Heli, Neon và
Argon.
Các nguyên tử có hoạt tính tìm cách đạt tới trạng thái bền vững không có
electron không cặp đôi ở lớp vỏ ngoài cùng. Chúng đạt được sự bền vững
này bằng cách chia xẻ electron với các nguyên tử khác, hoặc bằng cách cho
hoặc nhận một hoặc một vài electron. Trong cả hai trường hợp các nguyên
tử được liên kết với nhau. Những liên kết như vậy tạo ra tổ hợp bền vững
giữa các nguyên tử gọi là phân tử.
Một phân tử là hai hoặc nhiều nguyên tử liên kết với nhau bằng liên kết hóa
học. Xu hướng đạt được tám điện tử ở lớp vỏ ngoài cùng của các nguyên tử
trong các phân tử bền vững được biết dưới tên gọi quy tắc "bát tử". Nhiều
nguyên tử có ý nghĩa sinh học, ví dụ carbon (C) và nitơ (N) tuân theo quy
tắc bát tử. Tuy nhiên một số nguyên tử có ý nghĩa sinh học không tuân theo
quy tắc này. Hyđro (H) là một ví dụ dễ thấy nhất, đạt tới trạng thái cân bằng
khi chỉ có hai electron chiếm lớp vỏ duy nhất của nó.
Các liên kết hoá học : Sự kết nối các nguyên tử
Liên kết hoá học là một dạng lực hấp dẫn kết nối hai nguyên tử để hình
thành một phân tử. Có một số loại liên kết hoá học (bảng 2.1), ở phần này
chúng ta sẽ tìm hiểu về liên kết hoá học cộng hoá trị là kết quả của việc dùng
chung các điện tử Sau đó chúng ta sẽ xem xét các loại tương tác khác như:
liên kết Hyđro, là một loại liên kết yếu nhưng vô cùng quan trọng trong sinh
học. Cuối cùng chúng ta xét đến liên kết ion. được hình thành khi nguyên tử
mất đi hoặc nhận thêm điện tử.
9
Các liên kết cộng hoá trị : dựa trên các cặp điện tử dùng chung Khi hai
nguyên tử đạt được số điện tử ổn định ở lớp vỏ ngoài của chúng bằng
cáchđưa ra một hay nhiều cặp điện tử dùng chung., liên kết cộng hoá trị
được hình thành. Xem xét hai nguyên tử Hyđro ở gần nhau, mỗi nguyên tử
có một điện tử độc thân ở ngoài vỏ. Mỗi hạt nhân mang điện tích dương hút
các điện tử độc thân của các ngyên tử khác nhưng lực hút này được cân bằng
bởi lực hút của hạt nhân nguyên tử của chính điện tử đó.Do đó hai điện tử
độc thân đã được hai ngyên tử dùng chung, lấp đầy lớp vỏ ngoài của cả hai
nguyên tử đó.Như vậy chúng được nối với nhau bằng liên kết cộng hoá trị và
một phân tử khí Hyđro (H
2
)được tạo thành.
Một phân tử được tạo thành từ hơn một loại nguyên tử đựoc gọi là một hợp
chất. Một công thức phân tử sử dụng các kí hiệu hoá học để biểu diễn các
nguyên tử khác nhau trong một hợp chất , các chỉ số viết phía dưới chỉ số
nguyên tử mỗi loại trong phân tử. Ví dụ công thức của đường mía saccarozo
là C
12
H
22
O
11
. Mỗi hợp chất có phân tử lượng (khối lượng phân tử) là tổng
nguyên tử lượng của tất cả các nguyên tử trong phân tử.Nhìn vào bảng tuần
hoàn bạn có thể tính được khối lượng phân tử của đường mía là 342. Khối
lương phân tử thường liên quan đến kích thước phân tử.(hình 2.9)
Một nguyên tử cacbon có 6 điện tử ở lớp vỏ; 2 điện tử lấp đầy lớp vỏ bên
trong và 4 điện tử ở lớp vỏ ngoài.Lớp vỏ ngoài này có thể chứa được 8 điện
10
tử, Cacbon có thể dùng chung điện tử với 4 nguyên tử khác …. Nó có thể
hình thành 4 liên kết cộng hoá trị. Khi một nguyên tử cacbon phản ứng với 4
nguyênt ử Hyđro, phân tử Metan được hình thành (Hình 2.10a). Nhờ có các
điện tử dùng chung lớp vỏ ngoài của nguyên tử cacbon trong phân tử Metan
được lấp đầy với 8 điện tử, và lớp vỏ ngoài của mổi nguyênt ử Hyđro cũng
được lấp đầy. 4 liên kết cộng hoá trị - mỗi liên kết chứa 1 cặp điện tử dùng
chung , cùng tạo nên phân tử Metan. Bảng 2.2 chỉ ra các liên kết công hoá trị
của một số nguyên tố có ý nghĩa sinh học quan trọng.
Định hướng liên kết cộng hóa trị
Các liên kết cộng hoá trị là các liên kết mạnh. Năng lượng nhiệt mà các phân
tử sinh học thông thường có ở nhiệt độ cơ thể nhỏ hơn 1% năng lượng cần
thiết để phá vỡ các liên kết cộng hoá trị. Vì vậy với hầu hết các phân tử sinh
học,liên kết cộng hoá trị làm cho chúng trở nên khá bền vững. Điều này có
nghĩa là cấu trúc ba chiều và không gian chúng chiếm giữ khá ổn định. Một
đặc tính thứ hai của liên kết cộng hoá trị : đối với một cặp nguyên tử, liên
kết cộng hoá trị giữa chúng luôn giống nhau về độ dài, góc, hướng liên kết
bất chấp chúng nằm trong phân tử lớn hay nhỏ. Ví dụ như 4 orbitals được
lấp đầy quanh hạt nhân Cacbon của phân tử Metan, bản thân chúng đóng
góp các không gian để các nguyên tử Hyđro liên kết được định hướng vào
các góc của 1 khối tứ diện đều với Cacbon là tâm của khối tứ diện đó. Cấu
trúc 3 chiều của Cacbon và Hyđro cũng tương tự như vậy trong đại phân tử
Protein phức tạp. Đặc điểm này của liên kết cộng hoá trị giúp chúng ta có
thể dự đoán được các cấu trúc sinh học.
Mặc dù sự định hướng của các orbital và hình dạng của các phân tử khác
nhau phụ thuộc vào từng loại nguyên tử có liên quan và chúng liên kết với
nhau như thế nào, cũng cần phải nhớ rằng tất cả các phân tử đều chiếm giữ
không gian và có cấu trúc 3 chiều. Hình dạng của phân tử góp phần tạo nên
chức năng sinh học của chúng, chúng ta sẽ nghiên cứu ở chương 3.
2.2 Khả năng tạo liên kết cộng hoá trị của một số nguyên tố sinh học
quan trọng
Ngyên tố: Số liên kết cộng hoá trị thông thường
Hyđro (H) 1
11
Oxy (O) 2
Lưu huỳnh (S) 2
Nitơ (N) 3
Cacbon (C) 4
Photpho(P) 5
Các loại liên kết cộng hoá trị: Một liên kết cộng hoá trị được biểu diễn bằng
1 gạch nối giữa hai nguyên tử liên kết với nhau.: - Liên kết đơn chứa một
cặp điện tử dùng chung ( ví dụ H - H, C - C). - Liên kết đôi chứa 4 (2 cặp)
điên tử dùng chung (C = C). Các liên kết ba (6 điện tử dùng chung) rất hiếm
nhưng chúng ta có thể gặp ở liên kết của phân tử khí Nitơ (N≡N ) là thành
phần chính của không khí .
Các điện tử dùng chung không cân bằng
Nếu hai nguyên tử của một nguyên tố liên kết cộng hoá trị với nhau chúng
cùng chia sẻ cặp điện tử ở trạng thái cân bằng.Tuy nhiên khi hai nguyên tử là
hai nguyên tố khác nhau không còn sự cân bằng nữa. Một hạt nhân có thể
tác động lực hút tĩnh điện lớn hơn vào cặp điện tử làm chocặp diệ tử này có
xu hướng gần hơn với nguyên tử chứa hạt nhân đó. Lực hút của nguyên tử
tác động lên các điên tử được biểu hiện bằng độ âm điện cúa nguyên tử đó.
Nó phụ thuộc vào số điện tích dương của hạt nhân ( trong nhân có càng
nhiều proton thì điện tích dương càng lớn và hút điện tử càng mạnh ) và
khoảng cách từ hạt nhân đến các điện tử (khoảng cách càng gấn ái lực càng
lớn) Hai nguyên tử càng gần nhau về độ âm điện cặp điện tử dùng chung
càng ở dễ ở vị trí cân bằng. Bảng 2.3 chỉ ra độ âm điện của một số nguyên tố
quan trọng trong sinh học.Từ bảng đó ta thấy hai nguyên t ử Oxy đều có độ
âm điện là 3.5 sẽ chia sẻ cặp điện tử cân bằng, hình thành liên kết cộng hoá
trị không phân cực. Tương tự như vậy với hai nguyên tử Hyđro (2.1)
12
2.3 Độ âm điện của một số nguyên tố sinh học
Nguyên tố : Độ âm điện
Oxy (O) 3.5
Clo (Cl) 3.1
Nitơ (N) 3.0
Cacbon (C) 2.5
Photpho (P) 2.1
Hyđro (H) 2.1
Natri (Na) 0.9
Kali (K) 0.8
Nhưng khi Hyđro liên kết với Oxy để hình thành nước các điện tử ở vị trí
không cân bằng : chúng có xu hướng gần với Oxy hơn vì Oxy có độ âm địên
lớn hơn. Ở đay liên kết cộng hoá trị phân cực được tạo thành.(hình 2.11). Vì
các điện tử được chia sẻ không đều , nên Oxy trong liên kết Hyđro – Oxy
gần như mang điện tích âm ( kí hiệu là δ- , đọc là “delta trừ” nghĩa là đơn vị
điện tích từng phần) Hyđro coi như mang điện tích dương (δ+).Liên kết này
phân cực các điệ tích trái dấu tập trng ở hai đầu (2 cực) của liên kết. điệ tích
từng phần tạo ra từ liên kết cộng hoá trị phân cực làm cho phân tử phân cực
hay xuất hiện cac vùng phân cực trong các đại phân tử.Liên kết phân cực
gây ảnh hưởng lớn đến sự tương tác giữa các phân tử chứa chúng. Liên kết
Hyđro có thể hình thành giữa các nguyên tử trong liên kết cộng hoá trị có
cực. Trong nước lỏng, nguyên tử Oxy mang điện tích âm (δ-) của 1 phân tử
nước sẽ hút các nguyên tử Hyđro mang điện tích dương (δ+) của phân tử
nước khác ( do các điện tích âm hút các điện tích dương). Liên kết như vậy
được gọi là liên kết Hyđro. Liên kết Hyđro không chỉ tồn tại giữa các phân
tử nước. Chúng có thể hình thành giữa một nguyên tử có độ âm điện lớn và
một nguyên tử Hyđro liên kết cộng hoá trị với một nguyên tử có độ âm điện
lớn khác(hình 2.12). Liên kết Hyđro là một liến kết yếu nó chỉ bằng 1/10
(10%) của liên kết cộng hoá trị giữa 1 nguyên tử Hyđro và 1 nguyên tử Oxy.
(xem bảng 2.1). Tuy nhiên khi nhiều liên kết Hyđro được hình thành nó trớ
13
nên bền vững và có ảnh hưởng lớn đến cấu trúc và tính chất của các chất
Sau chương này chúng ta sẽ thấy được các liên kết Hyđro trong phân tử
nước tạo ra rất nhiều đặc tính làm cho nước trở nên không thể thiếu trong cơ
thể sống. Liên kết Hyđro cung đóng một vai trò quan trọng kiểm soát và duy
trì dạng ba chiều của các đại phân tử như ADN và các Protein(xem chương
3)
Liên kết ion hình thành từ lực hút điện tử Khi 1 nguyên tử có độ âm điện
lớn hơn nhiều so với nguyên tử tương tác với nó, xảy ra sự chuyển rời của
một hay nhiều điện tử.Xem xét hai nguyên tử Natr ( độ âm điện 0.9) và Clo
(3.1). Một nguyên tử Natri chỉ có 1 điện tử ở lớp vỏ ngoài ; điều kiên này
không bền. Một nguyên tử Clo có 7 điện tử ở lớp vỏ ngoài - trạng thái này
cũng không bền. Do độ âm điện của các nguyên tố này rất chênh lệch
nhau,một vài điện tử trong liên kết sẽ tiến đến rất gần hạt nhân Clo đến mức
mà trong thực tế đã là sự chuyển rời hoàn toàn điện tử từ nguyên tử này sang
nguyên tử khác.(hình 2.13) Tương tác giữa Natri và Clo làm cho các nguyên
tử ở trạng thái bền vững hơn. Đó là liên kết Ion.Ion là các tiểu phần mang
điên tích được tạo thành khi nguyên tử mất đi hay nhận thêm một hay nhiều
điện tử. - Ion Natri (Na+) có điện tích +1 vì nó có số lượng điện tử ít hơn 1
so với số proton. Lớp vỏ ngoài của Natri đựợc lấp đầy với 8 điện tử để ion ở
trạng thái bền vững. Các ion mang điện tích dương được gọi là các cation. -
Ion Clo (Cl-)có điện tích là -1 vì nó có số điện tử nhiều hơn 1 so với số
proton. Thêm vào 1 điện tử ,Cl- có lớp vỏ bến vững với 8 điện tử. Các ion
mang điện tích âm được gọi là các anion. Một số nguyên tố tạo thành ion
mang điện tích lớn khi bị mất hoặc nhận thêm hơn 1 điện tử.Ví dụ : ion
Ca2+(ion canxi được tạo ra từ nguyên tử Canxi bị mất hai điện tử) và ion
Mg2+ (ion magiê).Hai nguyên tố quan trọng trong sinh học trong đó mối
nguyên tố có 2 loại ion bền là :sắt với Fe
2+
( ion Sắt II) và Fe
3+
(ion sắt III);
đồng với Cu
+
(ion đồng I) và Cu
2+
(ion đồng II). Các nhóm nguyên tử liên
kết cộng hoá trị mang điện tích được gọi là các ion phức. Ví dụ như NH
4+
(ion amoni), SO
4
2-
(ion sunphat), và PO
4
3-
(ion photphat)
Điện tích từ các ion phát ra theo mọi hướng. Khi được hình thành các ion
thường ở dạng bền vững.chúng không bị mất đi hay nhận them các điện tích
nữa. Các ion hình thành liên kết bền thường là dạng rắn như Natri Clorua
(NaCl) và Kali Photphat (K
3
PO
4
).
Liên kết ion là liên kết được hình thành do lực hút tĩnh điện giữa hai ion có
điện tích trái dấu. Natri Clorua - loại muối ăn quen thuộc với chúng ta- các
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét