4
các xí nghiệp, nhà máy của tư bản thực dân Pháp và một bộ phận khác sản xuất
trong khu vực do chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ kiểm sốt.
Những người giỏi nghề trong lĩnh vực thủ cơng nghiệp cũng còn lại khơng
nhiều. Phần lớn đã bỏ nghề trong chiến tranh, một phần vì già yếu, phần vì việc
truyền nghề bị gián đoạn trong nhiều năm.
Lực lượng cán bộ trong những cơ quan, đơn vị sản xuất có sự phát triển cả về
số lượng và chất lượng với tổng số 15 vạn người. Đội ngũ này bao gồm hai bộ
phận: thuộc khu vực sản xuất vật chất và khơng sản xuất vật chất. Đối với khu vực
sản xuất vật chất có khoảng 7 vạn cơng nhân, chủ yếu làm việc trong xí nghiệp
quốc phòng, nơng trường quốc doanh, vận tải, bưu điện và thương nghiệp. Khu vực
khơng sản xuất cũng có khoảng 7 vạn người, bao gồm cán bộ viên chức hành chính
sự nghiệp, giáo dục, văn hố, y tế
Mặt khác ngay sau hiệp định Giơnevơ, với việc thực hiện 300 ngày tập kết,
chuyển qn và chuyển giao khu vực, miền Bắc đã đón nhận khoảng 15 vạn cán
bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc. Điều này đã cung cấp thêm lực lượng lao
động và đội ngũ trí thức cho miền Bắc.
Bản thân nền kinh tế miền Bắc sau khi tếp quản là một nền kinh tế kiệt quệ.
Đó là hậu quả tất yếu của chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của
chiến tranh. Kinh tế miền Bắc là một nền nơng nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh
mún với hơn 1.400.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang, hàng chục vạn nơng dân khơng
có nhà ở, nhiều cơng trình thuỷ lợi bị thực dân Pháp tàn phá, hàng chục vạn trâu bò
bị giết.
(1)
Đối với cơng nghiệp cực kỳ nghèo nàn. Phần lớn các xí nghiệp thiếu về máy
móc, hoặc có máy móc nhưng q lạc hậu. Khai thác mỏ giảm một nửa so với
trước chiến tranh. Hệ thống giao thơng và cơ sở hạ tầng nói chung bị tàn phá
nghêm trọng.(2)
Vài năm sau khi tiếp quản miền Bắc, giá trị sản lượng cơng nghiệp còn rất
thấp, chiếm chưa đầy 10% tổng giá trị sản lượng cơng - nơng nghiệp. Sản xuất tiểu
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
5
thủ cơng nghiệp bị đình đốn, phần vì giao lưu hàng hố giữa các địa phương bị
chiến tranh cản trở, phần vì do sự cạnh tranh của hàng hố Pháp. Hầu hết các cơ sở
cơng nghiệp của tư bản Pháp và tư sản dân tộc đều ngừng hoạt động. Hàng hố
cơng nghiệp trở nên khan hiếm. Số người thất nghiệp của các thành phố là trên 10
vạn người.
Miền Bắc cũng có hàng triệu người mù chữ. Số trường lới thiếu, tỷ lệ học sinh
đến trường lớp thấp. Số kỹ sư và cán bộ kỹ thuật ở lại trong các cơng sơ thuộc
Pháp trước đây rất ít. Hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân hầu như
khơng đáng kể.
Thực trạng trên đòi hỏi miền Bắc phải khẩn trương có những biện pháp cụ thể
khẩn trương khơi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Và việc tiến lên CNXH như là
một tất yếu khách quan. Nó phù hợp với quy luật phát triển khơng ngừng của cách
mạng. Đồng thời nó cũng đáp ứng nguyện vọng của giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động miền Bắc. Đó cũng là u cầu cấp bách của sự nghiệp cách mạng cả
nước, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam và đi
tới hồ bình thống nhất đất nước.
Nói chung lại, thời kỳ 1954 -1960 đánh dấu bước ngoặt trong việc miềm Bắc
bước vào thời kỳ q độ lên CNXH với những đặc điểm sau:
1. Từ một nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu - chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ cá
thể, lao động thủ cơng, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hết sức kém cỏi, cơ sở
vật chất do chế độ cũ để lại khơng có gì, trình độ văn hố của nhân dân còn thấp -
mà tiến thẳng lên giai đoạn CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
2. Cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc được tiến hành trong hồn cảnh đất
nước còn tạm bị chia cắt làm hai miền. Đế quốc Mỹ niến miền Nam thành thuộc
địa kiểu mới và dùng miền Nam làm căn cứ để phá hoại cơng cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc, gây nên cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc ở cả hai miền và
trên tồn bán đảo Đơng Dương với các hình thức và mức độ khác nhau.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
6
3. Miền Bắc lên CNXH khi phe XHCN đã trở thành một hệ thống trên thế
giới. Vì vậy miền Bắc cũng có được những thuận lợi nhất định trong việc xây dựng
CNXH.
Xuất phát từ những đặc điểm này, Đảng ta đã đề ra và từng bước hồn thiện
đường lối cách mạng XHCN, vạch ra những kế họach cụ thể đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh lên CNXH.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
7
II/ Việc thực hiện những chủ trương, chính sách mới của Đảng trong thời
kỳ khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và thời kỳ cải tạo xã hội
chủ nghĩa (XHCN) - Nhân tố quan trọng tác động đến biến đổi cơ cấu kinh tế -
xã hội thời kỳ 1954- 1960.
Ngay sau khi tiếp quản miền Bắc, Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương khơi
phục kinh tế miền Bắc nhằm:" hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế
quốc dân, giảm bớt những khó khăn của đời sống nhân dân, phát tiển kinh tế một
cách có kế hoạch và làm từng bước, mở rộng việc giao lưu kinh tế giữa thành thị và
nơng thơn" (3)
Chủ trương này được bổ xung và hồn thiện qua các hội nghị TW lần thứ 6
(7/1954), Hội nghị bộ chính trị (9/1954), Hội nghị TW lần thứ 7(3/1935), Hội nghị
TW lần thứ 8(8/1955), Hội nghị TW lần thứ 11(12/1956), Hội nghị TW lần thứ 12
(3/1957). Và miền Bắc đã thực hiện các chủ trương của Đảng thơng qua kế hoạch
khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 -1957) và kế hoạch cải tạo
XHCN (1958 -1960).
1/ Cải cách ruộng đất trong thời kỳ khơi phục kinh tế và hàn gắn vết
thương chiến tranh (1955 - 1957)
Tại hội nghị TW lần thứ 7 và lần thứ 8, Ban chấp hành TW Đảng khố II đã
xác định "Điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, mà cụ thể là hồn thành cải
cách ruộng đất, chia lại ruộng đất cho nơng dân, xố bỏ chế độ sở hữu ruộng đất
của giai cấp địa chủ, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH".(4)
Thực ra cải cách ruộng đất đã được tiến hành trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp. Từ tháng 11/1953 và tháng 12/1953, TW Đảng và Quốc hội đã phát động và
thơng qua luất cải cách ruộng đất. Tháng 12/1955 cải cách ruộng đất ở miền Bắc
được tiếp tục và kéo dài trong suốt thời kỳ khơi phục kinh tế, cho tới cuối năm
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
8
1957 thì kết thúc và thực sự được hồn thành vào năm 1958 (khi đã tiến hành cơng
tác sửa sai).
Cải cách ruộng đất đã lơi cuốn được khoảng 2.400.000 hộ với gần 11 triệu
người vào cuộc vận động chưa từng có trong lịch sử nơng thơn và nơng dân Việt
Nam.
Trong thời kỳ 3 năm 10 tháng, kể từ đầu cho đến khi hoang thành ta đã tiến
hành được 9 đợt giảm tơ và 5 đợt cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất đã được
tiến hành ở 3563 xã (xã mới chia lại) thuộc 22 tỉnh, bao gồm cả vùng đồng bằng,
trung du và miền núi phía Bắc. Cuộc cải cách đã động chạm đến 2.453.518 gia
đình, 10.700.000 nhân khẩu và 1,5 triệu ha ruộng đất (tức phần ruộng đất ở miền
Bắc. Đã tịch thu, trưng thu và trưng mua 810.000 ha ruộng đất, trên 100.000 trâu
bò, 1,8 triệu nơng cụ chia cho 2, 2 triệu hộ nơng dân lao động gồm 9,5 triệu người.
Như vậy là đã có 72,8% số hộ nơng dân ở nơng htơn ở miền Bắc được chia lại
ruộng đất. Thắng lợi này đã tạo tiền đề củng cố và phát triển miền Bắc về mọi mặt.
Với tỷ lệ ruộng đất được phân chia tương đối đồng đều, các hộ nơng dân đã có đủ
ruộng canh tác, tự sản xuất độc lập. Điều này đã tạo tiền đề khách quan cho việc
củng cố vai trò kinh tế của các hộ nơng dân.
Mặc dù cải cách ở miền Bắc có những sai làm nhất định (đã mắc vào chủ
nghĩa thành phần, chủ nghĩa trừng phạt, nặng về đấu tố, nhẹ về giáo dục, áp dụng
một cách máy móc kinh nghiệm của nước ngồi Và hậu quả là hàng loạt các vụ
quy nhầm thành phần gây bất bình trong nhân dân). Nhưng su khi tiến hành sửa sai
kết quả là chúng ta vẫ đạt được những thắng lợi lớn. Xố bỏ được quyền chiếm hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ, xác lập quyền sở hữu ruộng đất của nơng dân lao
động, mục tiêu " người cày có ruộng" đã được thực hiện. Bộ mặt kinh tế và xã hội
ở nơng thơn đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực hơn. Nơng dân dựoc tự chủ
và hăng hái lao động sản xất góp phần ổn định đời sống xã hội ở nơng thơn.
Với cải cách ruộng đất ở miền Bắc thành quả cách mạng, cũng như tính ưu
việt của chế độ mới được bộc lộ rất rõ. Bởi lẽ cũng trong thời kỳ này ở miền Nam
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
9
với những chính sách phản động của Ngơ Đình Diệm trong việc thực hiện cải cách
điền địa. Kết quả là đã phục hồi quan hệ sản xuất phong kiến, tá điền hố nơng
dân, thành quả mà cách mạng đã đem lại cho nơng dân miền Nam đều bị thủ tiêu,
ách phong kiến lại qng lên cổ họ.
2. Khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 -1957).
Tháng 9/1954, Bội chính trị đã ra nghị quyết vạch rõ nhiệm vụ trước mắt
trong thời kỳ tới là ổn định trật tự xã hội, ổn định giá cả, ổn định thị trường. Khâu
trọng tâm là ở cả thành phố và nơng thơn là phục hồi và nâng cao sản xuất, phục
hồi kinh tế quốc dân mà then chốt là phục hồi sản xuất nơng nghiệp. Phục hồi giao
thơng vận tải có tính chất mở đường. Chú ý phục hồi và nâng cao sản xuất cơng
nghiệp, thủ cơng nghiệp, nhất là những cơng xưởng cơng nghiệp nhẹ sản xuất
những mặt hàng phục vụ đời sống nhân dân.
Tháng 3/1955, kỳ họp thứ tư của Quốc hội tiếp tục nhấn mạnh phải :"dựa vào
sức lực của nhân dân ta, đồng thời dựa vào sự giúp đỡ của các nước bạn - sức ta
vẫn là chính nhằm khơi phục nơng nghiệp, phát triển cơng nghiệp và thủ cơng
nghiệp, khơi phục thương nghiệp và bình ổn giá cả, củng cố nền tài chính quốc gia,
khơi phục giao thơng vận tải"(5)
Mục tiêu của khơi phục kinh tế là mức sản xuất năm 1939 - mức cao nhất ở
Đơng Dương trước chiến tranh. Tới cuối năm 1957 kế hoạch khơi phục kinh tế đã
căn bản được hồn thành và nhiều chỉ tiêu đã hồn thành vựơt mức.
Về nơng nghiệp. Hầu hết các cơng trình thuỷ lợi đã được khơi phục, các hệ thống
sơng Giang, sơng Cầu, sơng Chu và nhiều cơ sở cơng trình thuỷ lợi khác bắt đầu
được sửa chhữa. Nhân dân khắp nơi đào mương, khơi ngòi ,đắp đê, khai hoang
phục hố ruộng đất. Nơng dân thi đua sản xuất vào tổ đổi cơng, xây dựng thủ hợp
tác xã nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Nạn đói giáp hạt - sản
phẩm của chế độ cũ đã bước đầu được giả quyết.
Về cơng nghiệp. Miền Bắc đã khơi phục được 29 xí nghiệp cũ, xây dựng được
55 xí nghiệp mới, chủ yếu là sản xuất hàng tiêu dùng như nhà máy Diêm Thống
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
10
Nhất, Gỗ Cầu Đuống, Thuốc lá Thăng Long Những nhà máy, xí nghiệp quan
trọng như mỏ than, nhà máy xi măng, nhà máy dệt đều được khơi phục và phát
triển. Đến cuối năm 1957, miền Bắc đã có 97 nhà máy, xí nghiệp do nhà nước quản
lý.
Trong lĩnh vực giao thơng vận tải. Miền Bắc đã khơi phục được gần 700 km
đường sắt. Quan trọng nhất là tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, sửa chữa và làm
mới hàng nghìn km đường ơ tơ, xây dựng và mở rộng nhiều bến cảng như Hải
Phòng, Cẩm Phả, Bến Thuỷ. Đường hàng khơng dân dụng quốc tế cũng được khia
thơng.
Các ngành văn hố, giáo dục, y tế, cũng đã phát triển nhanh chóng. Nền giáo
dục được phát triển theo hướng XHCN. Giáo dục phổ thơng và đại học được chú ý
phát triển. Số học sinh trung học chun nghiệp và đại học tăng lên. Đây là nguồn
lớn bổ xung về lực lượng lao động có tay nghề và đội ngũ cơng nhân viên chức.
Nói tóm lại, trải qua thời gian 3 năm, nhân dân miền Bắc "đã đạt được những thành
tích to lớn trong cơng cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khơi phục kinh tế, bước
đầu phát triển văn hố Nơng nghiệp đã vượt mức trước chiến tranh. Cơng nghiệp
đã khơi phục được các xí nghiệp cũ, xây dựng một số nhà máy mới. An ninh trật tự
được giữu vững, quốc phòng được củng cố".(6)
Những thắng lợi lớn này đã góp phần tích cực vào việc thay đổi bộ mặt kinh té - xã
hội miềm Bắc thời kỳ đó. Tạo tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu
trong thời kỳ cải tạo XHCN.
3. Cải tạo XHCN 1958 - 1960
Tháng 11/1958, Ban chấp hành TW Đảng họp hội nghị lần thứ 14 đề ra 3 năm
phát triển kinh tế - văn hố và cải tạo XHCN đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư
bản tư doanh. Hội nghị chỉ rõ:" Nhiệm vụ cơ bản của chúng ta ở miền Bắc là đẩy
mạnh cuộc cải tạo XHCN đối với kinh tế cá thể của nơng dân, thợ thủ cơng và cuộc
cải tạo đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh. Đồng thời phải ra sức phát tiển
thành phần kinh tế quốc dân. Trong khi tiến hành cải tạo XHCN và xây dựng
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
11
CNXH phải kiên quyết đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của bọ phản
cách mạng".(7) Mục đích chính là dần dần biến nền kinh tế quốc dân nhiều thành
phần thành nền kinh tế XHCN thuần nhất dựa trên dựa trên chế độ sở hữu tồn dân
và chế độ sở hữu tập thể.
Đối với cơng thuơng nghiệp tư bản tư doanh, cuộc cải tạo đã được tiến hành
bằng biện pháp hồ bình. Bởi vì giai cấp tư sản miền Bắc nhỏ yếu, số lượng ít, đa
số thuộc loại vừa và nhỏ, vốn là đồng minh của giai cấp cơng nhân trong cách
mạng dân tộc dân chủ. Nhà nước đã chủ trương mua lại, chuộc lại tư liệu sản xuất
của tư sản và trả dần tiền chuộc cho nhà tư sản, đưa họ vào cơng tư hợp doanh,
hoặc các xí nghiệp hợp tác, xố bỏ giai cấp tư sản, cải tạo nhà tư sản thành người
lao động. Giai cấp tư sản miền Bắc đều có phản ứng, thậm chí có lúc rất gay gắt.
Nhưng đến cuối năm 1960 đã có 97% hộ tư sản vào cơng tư hợp doanh. Đồng thời
đã có 87,9% số thợ thủ cơng vào 45% những người bn bán nhỏ vào hợp tác xã.
Đối với thủ cơng nghiệp. Trong thời kỳ chơng Pháp, thủ cơng nghiệp nhỏ, lạc
hậu. Sau khi hồ bình lập lại vị trí quan trọng của nó trong nền kinh tế nước ta
khơng hề thay đổi. Thủ cơng nghiệp thời gian này bao gồm có 17 ngành và 150
nghề và sản xuất hơn 1000 loại hàng hố khác nhau. Và việc tiến hành cải tạo thủ
cơng nghiệp theo CNXH nhằm tao điều kiện cơ bản cho thủ cơng nghiệp có thể dần
dần xố bỏ mặt lạc hậu, phát huy mạnh mẽ các mặt tích cực, phát triển có lợi cho
kinh tế quốc dân và cho thợ thủ cơng. Đồng thời với cải tạo phải chú ý gắn liền với
cải tiến kỹ thuật, tận dụng khả năng của hàng tiêu dùng để sản xuất hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu. Hướng cải tạo cơ bản là đưa thủ cơng nghiệp và thợ thủ cơng
bằng con đường hợp tác hố như tổ hợp tác mua và bán, tổ hợp tác vừa mua vừa
sản xuất, của hàng hợp tác, mục đích là chuyển dần những người bn bán nhỏ vào
sản xuất và để tiến lên CNXH.
Đối với cơng nghiệp. Cơng nghiệp quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo, là cơ sở
chủ yếu của nền cơng nghiệp XHCN. Sản xuất cơng nghiệp sẽ cung cấp hàng tiêu
dùng và những tư liệu sản xuất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Nó thúc đẩy
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
12
cơng thương nghiệp ru bản tư doanh phát triển, và giúp đỡ thủ cơng nghiệp phát
triển theo con đường hợp tác hố.
Trong kế hoạch 3 năm 2958 - 1960 sẽ ra sức phát triển cơng nghiệp sản xuất
các tư liệu sản xuất ( hướng phát triển sẽ chú trọng vào các ngành điện lực, khai
khống, luyện kim, chế tạo cơ khí ), đồng thời tiếp tục phát triển hàng tiêu dùng (
hàng dệt, thực phẩm, giấy, xã phòng ). Kết hợp xây dựng cơng nghiệp TW với
xây dựng cơng nghiệp địa phương.
Về quy mơ xây dựng và cơ sở kỹ thuật của các xí nghiệp. Trong kế hoạch 3
năm này chúng ta chủ trương kết hợp xây dựng các xí nghiệp loại lớn, loại vừa và
loại nhỏ, lấy loại vừa và loại nhỏ làm chính; Kết hợp kỹ thuật hiện đại với cơ khí
và thủ cơng. Các xí nghiệp của TW và địa phương; loại cũ và loại mới; loại lớn,
loại vừa và loại nhỏ; kỹ thuật hiện đại, nửa cơ khí và thủ cơng phải giúp đỡ nhau
một cách chặt chẽ.
Đi đơi với phát triển cơng nghiệp quốc doanh của TW là đẩy mạnh cải tạo và
phát triển thủ cơng nghiệp, xây dựng các xí nghiệp quốc doanh địa phương theo
hướng kết hợp thủ cơng nghiệp hợp tác với cơng nghiệp quốc doanh địa phương.
Hình thành một mạng lưới cơng nghiệp địa phương và bổ xung có hiệu quả cho
phát triển kinh tế đất nước.
4. Hợp tác hố nơng nghiệp
Tháng 4/1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban chấp hành TW Đảng (khố II) đã thơng qua
nghị quyết quan trọng về vấn đề hợp tác hố nơng nghiệp. Hội nghị xác định :"
Dựa hẳn vào bần nơng và trung nơng lớp dưới, đồn kết chặt chẽ với trung nơng, đi
đến và xố bỏ sự bóc lột kinh tế của phú nơng, cải tạo tư tuởng của phú nơng, ngăn
ngừa địa chủ ngóc đầu dậy, tiếp tục mở đường cho địa chủ lao động cải tạo thành
con người mới, kiên quyết đưa nơng dân đi vào con đường hợp tác hố nơng
nghiệp để tiến lên CNXH"(8). Hội nghị cũng chỉ rợp tác hố phải đi đơi với thuỷ
lợi hố và tổ chức lại lực lượng lao động. Đồng thời cũng chỉ rõ ba ngun tắc cần
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
13
được qn triệt trong suốt thời kỳ xây dựng hợp tác xã nơng nhiệp: tự nguyện, cùng
có lợi, và quản lý dân chủ.
Lênin đã từng nói ;"chia lại ruộng đất chỉ tơt trong buổi đầu, đó là tỏ rõ ruộng
đất đã tỏ rõ ruộng đất đã rời khởi tay địa chủ trở về với nơng dân. Nhưng như thế
vẫn chưa đủ, mà cần phải có chế độ làm chung mới có lối ra"(9).
Vận dụng sáng tạo vào hồn cảnh thực tế của miền Bắc, Đảng ta đã kịp thời phát
động một phong trào xây dựng hợp tác xã. Mục đích là chặn đứng con đường phát
triển tư bản ở nơng thơn, cứu nơng dân khỏi rơi vào con đường Tư bản chủ nghĩa.
Nó là điều kiện tiên quyết để đua nơng nghiệp tư sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
XHCN.
Mặt khác chúng ta từ một nước nơng nghiệp lạc hậu tiến lên CNXH bỏ qua
giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa, thì cơng cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH bằng cơng nghiệp hố đã đạt ra nhiệm vụ tất yếu cho nơng nghiệp là nơng
nghiệp phải trở thành cơ sở cho cơng nghiệp phát triển. Trong khi đó sau cải cách
ruộng đất, số hộ vươn lên thành hộ giàu có là rất ít. Cơ sở canh tác vẫn lạc hậu, cơ
sở hạ tầng còn nghèo nàn và nơng nghiệp miền Bắc còn phụ thuộc vào thiên nhiên.
Để khắc phục điều này, nơng nghiệp phải được tổ chức lại nhằm tạo ra một kiểu tổ
chức có năng xuất cao hơn. Nói khác đi là phải thực hiện một cuộc cách mạng
trong bản thân phương thức sản xuất nơng nghiệp, chuyển lên nơng nghiệp sản xuất
lớn XHCN.
Trước thời kỳ cải tạo, miền Bắc đã có một số hợp tác xã nơng nghiệp. Còn
phong trào tổ đổi cơng thì đã có từ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Khi
phong trào tổ đổi cơng phát triển mạnh và có chất lượng cao nhất vào năm 1958, thì
cũng bắt đầu của phong trào hợp tác hố.
Riêng ở vùng núi, vì cơng cuộc cải cách chưa được tiến hành nên cuộc vận
động xây dựng sản xuất tập thể được phát động cùng với cải cáh ruộng đất.
Phong trào hợp tác hố nơng nghiệp thực chất là một cuộc vận động cách
mạng về quan hệ sản xuất ở cùng nơng thơn. Nhưng có thể nói ảnh hưởng của nó
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét