Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

v2289

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
của cuộc cách mạng; xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu
cộng sản chủ nghĩa - nhân tố cơ bản của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa.
150 năm đã trôi qua, tính đúng đắn của những nguyên lý trong Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản ngày càng đựơc thực tế chứng minh. Chế độ sở hữu
TBCN ngày càng tỏ ra bất lực, không bao chứa nổi lực lợng sản xuất xã hội
ngày càng phát triển nh vũ bão, tình trạng thất nghiệp, phân cực giàu nghèo
quá xa trong từng nớc t bản. Những vấn đề cấp bách toàn cầu nh nạn đói ở
Châu Phi, tình trạng huỷ hoại môi trờng sinh thái, mối quan hệ bất bình đẳng
giữa các nớc phát triển với các nớc chậm phát triển, cuộc khủng hoảng tiền
tệ, những cuộc chiến tranh kinh tế đang đòi hỏi phải có sự thay đổi căn bản
chế độ sở hữ TBCN, thay đổi cả chế độ xã hội t bản. Nguyên lý về tính tất
yếu phải xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu cộng sản chủ
nghĩa của "Tuy ngôn" cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị.
1.2. Sở hữu về t liệu sản xuất ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc, theo
định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các
hình thức sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận.
Song, đây lại là vấn đề hết sức phức tạp và cho đến nay vẫn còn có những ý
kiến khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày cặn kẽ vấn
đề hết sức phức tạp, mà chỉ nêu lên một số ý kiến về các hình thức sở hữu
trong nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
Hơn mời năm đổi mới đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta
đã chứng tỏ tính đúngđắn của đờng lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá
các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo toàn dân thực hiện.
Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đơng nhiên phải
bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không thể chỉ có hai hình thức sở hữu -
toàn dân và tập thể - nh quan niệm trớc đây. Trong giai đoạn hiện nay, nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức sở hữu nh: sở
hữu toàn dân, sở hữu Nhà nớc, sở hữu tập thể , sở hữu cá thể, sở hữu t bản t
nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này, khái
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
quát lại, chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và t hữu, còn các
hình thức khác chỉ là những hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. ở
đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều phơng thức biểu hiện và trình độ thể
hiện khác nhau. Chúng đợc hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và
tuỳ theo trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và năng lực quản lý.
Về sở hữu toàn dân. ở nớc ta hiện nay, nh Hiến pháp và Luật đất đai đã
qui định rõ: "đất đai thuộc sở hữu toàn dẫn". Xét về mặt kinh tế, đất đai là
phơng tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất
đai là lãnh thổ, là nơi c trú của cả một cộng đồng. Thế nhng, khi xét trên cả
hai phơng diện, có thể nói rằng đất đai không thể là đối tợng sở hữu của riêng
ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là t liệu sản xuất, hay nói cách
chính xác hơn, nó là một bộ phận quan trọng của t liệu sản xuất. Bởi thế, dù
là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo những
qui luật của thị trờng và chịu sự điều tiết của những qui luật đó.
Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nớc là ngời đại diện sở hữu
và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao đổi quyền cho các hộ nông dân,
kể cả quyền đợc chuyển nhợng, quyền sử dụng đất đai. Nếu biết giải quyết cụ
thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn
nh ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, song ngời nông dân đợc quyền sử
dụng ổn định, lâu dài, thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực
lợng sản xuất và sự tăng trởng kinh tế nói chung.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đơng nhiên là nó bao gồm
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên
kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hớng có lợi cho
quốc kế dân sinh. Nhà nớc quản lý kinh tế với t cách là cơ quan quyền lực đại
diện cho lợi ích của nhân dân và là ngời đại diện đối với tài sản thuộc sở hữu
toàn dân.
Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: "Trên cơ sở chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai, ruộng đất đợc giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà n-
ớc qui định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng
đất Nh vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở nớc ta hiện nay đã đợc xác định
theo nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát
triển kinh tế.
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Về sở hữu Nhà nớc. Trong thời kỳ bao cấp trớc đây, không chỉ ở nớc ta,
mà còn ở một số nớc khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, thờng đồng nhất
sở hữu Nhà nớc với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn nh vậy mà có một thời
gian khá dài, ngời ta thờng bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nớc, chỉ quan tâm
đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dới hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân đợc gắn
kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã
ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ có nh vậy mới có
chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã
trở thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả.
Trong một xã hội mà Nhà nớc còn tồn tại, thì sở hữu toàn dân cha có
điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở
hữu Nhà nớc, xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn
kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nớc ở nớc ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền
sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nớc.
Về sở hữu tập thể. ở nớc ta trớc đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu
tồn tại dới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp), với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tợng sở
hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với
hình thức sở hữu này, quyền mua, bán hoặc chuyển nhợng t liệu sản xuất,
trong thực tế sản xuất và lu thông ở nớc ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền
của các tập thể sản xuất thờng rát hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm
quyền. Sự không xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu Nhà nớc và với
sở hữu t nhân trá hình cũng là hiện tợng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng
đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trờng hiện nay, theo chúng tôi, phải
xác định quyền mua bán và chuyển nhợng t liệu sản xuất đối với các tập thể
sản xuất, kinh doanh. Chỉ có nh vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành
một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đều biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trng
cho chủ nghiã, nhng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển
hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, nh V.I.Lênin đã
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
khẳng định, "chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội
chủ nghĩa".
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản
xuất hàng hoá. Khi lực lợng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ
phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong
điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật
t, tiêu thụ sản phẩm, v.v đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới
có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liene kết ngời lao
động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy,
ở nớc ta hiện nay, đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu
cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trờng. "Hợp tác xã đợc tổ chức trên
cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân
phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền nh nhau
đối với công việc chung". Điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu
tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nớc ta hiện nay.
Về sở hữu cá thể. Đa dạng hoá các lực lợng sản xuất là một trong những
cơ sở để đa dạng hoá các quan hệ sở hữu, bởi nh chúng ta đã rõ, sở hữu biểu
hiện quan hệ của con ngời không chỉ đối với t liệu sản xuất nói riêng mà còn
đối với toàn bộ lực lợng sản xuất nói chung. ở nớc ta, hình thức sở hữu cá thể
tồn tại chủ yếu dới hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trớc đây, kinh tế cá thể,
tiểu chủ ở nớc ta chủ yếu có tính chất tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ
chế quản lý. Hiện nay, nó đang đợc khuyến khích phát triển và đang có xu h-
ớng phát triển thuận lợi. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có mối quan hệ chặt chẽ với
kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu cá thể cũng liên quan mật thiết với
hình thức sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm những đơn vị kinh
tế và những hoạt động kinh doanh dựa vào nguồn vốn và sức lao động của
mỗi cá nhân, nhóm nhỏ là chủ yếu đang chiếm một vị trí quan trọng trong
nhiều ngành nghề ở nông thôn cũng nh ở thành thị. Nó có điều kiện phát huy
nhanh và có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng
nhóm và từng ngời dân. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã chỉ
rõ: "Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá
thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về
thị trờng tiêu thụ sản phẩm sản phẩm. Hớng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì
lợi ích thiết thất và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bớc đi vào làm ăn
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nớc
hay hợp tác xã".
Chúng ta đã biết, kinh tế cá thể, tiểu chủ, về thực chất, là thành phần
kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ t
hữu nhỏ về t liệu sản xuất và lao động của bản thân và cho đến nay nó vẫn đ-
ợc coi là sở hữu cá nhân. Thứ sở hữu cá nhân đó không phải là một chế độ sở
hữu độc lập. Bởi thế, nó không thể tạo ra quan hệ sản xuất, hoặc đại diện cho
một quan hệ sản xuất mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn
tại và phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất đó.
Thành phần kinh tế này cũng luôn chịu sự tác động của những qui luật
kinh doanh và luôn bị phân tán, vì thế cần phải có các biện pháp kinh tế để
tác động, hớng dẫn và cải biến nó theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Về sở hữu t bản t nhân. ở nớc ta hiện nay, kinh tế t bản t nhân đang
hình thành và đợc phép phát triển. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ
sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa về t liệu sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần sở hữu t bản t nhân, bao gồm cả doanh nghiệp
của các nhà t sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một hoặc một sóo
t nhân góp lại, thuê lao động sản xuất kinh doanh dới hình thức xí nghiệp t
doanh hoặc Công ty cổ phần t nhân. Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế t
bản t nhân nớc ngoài đầu t 100% vốn, hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế.
Trong thời kỳ quá độ, phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa không còn nguyên
vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế t bản t nhân ở nớc ta chỉ hoạt động với t cách là một
thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đợc "bảo hộ
quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp".
Về sở hữu hỗn hợp. Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia
của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Có thể nói đây là một loại hình
kinh tế trung gian, có tính chất đan xen giữa thành phần kinh tế t bản chủ
nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện nền kinh tế thế
giới hiện đang có nhiều biến đổi, nhìn chung các nớc trên thế giới, trong đó
có nớc ta, thờng có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức
sở hữu hỗn hợp khác nhau. Đó là sự kết hợp, liên kết giữa các chủ thể; Nhà n-
ớc, tập thể và t nhân để tạo nên các dạng sở hữu sinh động nh: Nhà nớc và
nhân dân; Nhà nớc và tập thể; Nhà nớc, tập thể và t nhân; tập thể và t nhân,
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
v.v Thực chất đây cũng là các xí nghiệp (hoặc Công ty) cổ phần, chỉ có sự
khác biệt là ở chỗ các chủ thuể không đồng nhất về tính chất. Đó là các hình
thức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào - hình thức
kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu dới dạng ty, xí nghiệp cổ phần hùn vốn liên
doanh hai bên và nhiều bên ở trong nớc với nớc ngoài.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa t bản Nhà nớc, hay hình
thức kinh tế t bản Nhà nớc làm phơng tiện và cứu cánh để phát triển. Bởi chủ
nghĩa t bản Nhà nớc, theo V.I.Lênin, là một hình thức phổ biến trong thời kỳ
quá độ, và sự tồn tại của nó là thực sự cần thiết. Đây là một hình thức tổ chức
kinh tế, trong đó có phần tham dự của Nhà nớc và t nhân với nhiều hình thức
cụ thể, trên mọi lĩnh vực sản xuất, lu thông, dịch vụ, tín dụng, v.v ở nớc ta
hiện nay, "kinh tế t bản Nhà nớc bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh
giữa kinh tế với t bản t nhân trong nớc và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà
nớc với t bản nớc ngoài". Nó có u thế mạnh hơn so với t bản t nhân ở chỗ, nó
đã kết hợp đợc sức mạnh tổng hợp của hai thành phần kinh tế có tiềm lực lớn
nhất trong thời kỳ quá độ. Bởi vậy, hình thức sở hữu hỗn hợp ở nớc ta là cái
có khả năng thực hiện tập trung hoá, chuyên môn hoá sản xuất và tạo ra sản
phẩm có chất lợng cao, có sức cạnh tranh lớn trên thị trờng trong và ngoài n-
ớc.
Để cho "chủ nghĩa t bản Nhà nớc" có những đóng góp thực sự cho vịêc
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hớng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta cần phải tạo điều kiện, môi trờng thuận lợi cho sự tồn tại và
phát triển của nó. Hiện nay, chúng ta đang chủ trơng cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nớc, đó chính là một giải pháp nhằm phát triển kinh tế t bản Nhà
nớc, đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Tuy nhiên, vấn đề cổ phần hoá ở nớc
ta còn hết sức mới mẻ, cần phải nhận thức một cách đầy đủ, áp dụng từng b-
ớc, cần "thí điểm việc bán cổ phần cho ngời nớc ngoài. Trong hình thức sở
hữu hỗn ohựp, mà nòng cốt là thành phần kinh tế t bản Nhà nớc, còn tồn tại
các thành phần kinh tế t nhân tự cấp, tự túc, kinh tế tiểu chủ trong các khu
vực kinh tế còn lạc hậu, sản xuất hàng hoá chậm phát triển. Các thành phần
kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối quan hệ nội tại và tác động qua lại lẫn
nhau, nó là kết quả của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế theo định hớng
xã hội chủ nghĩa.
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mỗi hình thức sở hữu nói
trên có vị trí và vai trò riêng của chúng. Địa vị lịch sử của chúng phụ thuộc
vào sự phát triển của lực lợng sản xuất, vào trình độ quản lý, vào tiến trình
phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội
chủ nghĩa.
1.3. Những nhận thức mới về sở hữu t liệu sản xuất ở nớc ta hiện nay
Cần hiểu rõ hơn định nghĩa sở hữu: Sở hữu là hình thức nhất định đợc
hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cải vật chất xã hội. Chiếm hữu
thể hiện quan hệ giữa ngời với tự nhiên, là hành vi gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của con ngời. Chiếm hữu là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các giai
đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại.
Sở hữu là quan hệ giữa ngời với ngời về sự chiếm hữu tự nhiên. Sở hữu
là hình thức xã hội của hành vi chiếm hữu trong hình thức kinh tế - xã hội
nhất định. Sở hữu là phạm trù lịch sử, biến đổi cùng với sự biến đổi của hình
thái xã hội trong lịch sử.
Phân biệt giữa chiếm hữu và sở hữu là hết sức cần thiết để nhận thức
khoa học về phạm trù sở hữu t liêụ sản xuất. Lý luận kinh tế học t sản đã lợi
dụng cách hiểu lập lờ giữa hai phạm trù nói trên để biểu lộ cho sự tồn tại
"Vĩnh viễn" của chế độ t hữu TBCN.
Họ cho rằng sở hữu là quan hệ giữa ngời với vật, đồng nhất sở hữu với
chiếm hữu, không thấy (hoặc cố tình không thấy quan hệ giữa ngời với ngời
thông qua chiếm hữu vật và mang tính đặc thù trong mỗi hình thái kinh tế -
xã hội, không thấy trình độ chiếm hữu tự nhiên của con ngời gắn liền với
hình thức xã hội nhất định của con ngời - cái hình thức không phụ thuộc vào
ý chí của con ngời. Chính quan hệ sở hữu biến đổi là "sóng ngầm" bên trong
quyết định sự biến đổi của chế độ kinh tế - chính trị - xã hội.
Sở hữu là quan hệ kinh tế chứ không phải là quan hệ ý chí của con ngời
trong xã hội. Sở hữu quyết định hệ thống chính trị chứ không phải ngợc lại.
Chỉ trong mối quan hệ giữa ngời với ngời độc lập với quan hệ ý chí thì
vật sở hữu mới trở thành đối tợng sở hữu thực tế, mới đem lại quyền lợi thực
tế của con ngời sở hữu, cho giai cấp nhất định và một hệ thống chính trị có
màu sắc muôn vẻ.
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Đối tợng của sở hữu luôn biến đổi, thích ứng. Lịch sử cho thấy, đối tợng
chủ yếu của sở hữu (sở hữu cái gì), đã từng chuyển dịch qua nhiều thứ: từ sở
hữu vật tự nhiên quý, hiếm, sở hữu nô lệ, đất đai, tiến đến sở hữu tiền, t bản,
t liệu sản xuất hiện đại (máy móc).
Đối tợng của sở hữu ngày càng đợc mở rộng, không chỉ sở hữu về t liệu
sản xuất, vật phẩm tiêu dùng mà còn sở hữu vốn (tài chính, khả năng sinh lời
v.v ). Việc "tiền tệ hoá" các đối tợng sở hữu là chủ yếu và là một bớc tiến bộ
lớn.
Ngày nay, dới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, lực lợng
sản xuất phát triển mạnh mẽ, đối tợng chủ yếu của sở hữu xuất hiện nhân tố
mới "trí tuệ". Trí tuệ trở thành đối tợng của sở hữu là những thông tin có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội.
Những "trí tuệ" đó có chủ sở hữu, chủ quản lý kinh doanh, đợc Nhà nớc bảo
hộ về mặt pháp lý. Cuộc cách mạng tin học ngày càng phát triển thì "trí tuệ"
(theo cách hiểu nh trên) các trở thành đối tợng sở hữu quan trọng. Vấn đề này
không chỉ trong từng quốc gia mà cả trên lĩnh vực quốc tế cũng ngày càng
thu hút sự quan tâm của nhiều ngời, nhiều nớc. Tuy nhiên, không thể thấy sở
hữu "trí tuệ" thay cho mọi đối tợng sở hữu.
Cần phải biết nắm đối tợng sở hữu chủ yếu nào chi phối cả hệ thống
kinh tế để tác động, điều chỉnh quan hệ kinh tế theo định hớng xã hội chủ
nghĩa; phải tìm kiếm các hình thức sở hữu phù hợp cho từng đối tợng sở hữu
làm cho mọi t liệu sản xuất, mọi của cải vật chất xã hội đều có chủ đích thực
nhờ đó mà tránh đợc hao tổn, thất thoát, các nguồn lực kinh tế của đất nớc.
Nói tới sở hữu dễ nghĩ ngay tới "của ai"? Một đối tợng của cải vật chất
nào đó đợc trả lời "của ai"? (của cá nhân, nhóm hoặc của Nhà nớc) là tởng
nh vấn đề sở hữu đã rõ. Song đó mới chỉ là cách hiểu sơ giản, bề ngoài.
Thứ hai, sở hữu phải đợc thể chế hoá về mặt pháp lý, nó liên quna đến
những vấn đề thuộc kiến trúc thợng tầng. Sở hữu thể hiện qua quan hệ pháp
lý có tính ổn định tơng đối. Vì thực chất là nó phản ánh những quan hệ khách
quan đã có thực, khá phổ biến trong đời sống kinh tế xã hội dới dạng luật
pháp và qui định. Thông qua đó, sở hữu phải đi tới thể hiện dới dạng thực
hiện hệ thống lợi ích kinh tế.
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Thứ ba, phạm trù sở hữu cần đợc nhận thức bao gồm nhiều khâu, nhiều
mối quan hệ nh của ai? Ai sở hữu? Ai quản lý kinh doanh (sử dụng)? v.v. và
sự thực hiện lợi ích kinh tế nh thế nào? dới hình thức nào?
Nhận thức nội dung khách quan của sở hữu mà không tìm thấy hệ thống
thực hiện lợi ích kinh tế thì mới chỉ dừng lại ở mức nửa vời. Còn phải qua hệ
thống lợi ích ở mỗi khâu, mỗi mối quan hệ để thấy vận động hiện thực của hệ
thống quan hệ khách quan.
Quan hệ lợi ích một mặt phải bảo đảm lợi ích cho nhóm chủ thể sở hữu,
mặt khác phải bảo đảm lợi ích cho nhóm chủ thể quản lý kinh doanh (sử
dụng). Động lực kinh tế bắt nguồn từ nội dung bên trong của quan hệ sở hữu
tạo nên các lực lợng giai cấp, từng lớp khác nhau. Các giai tầng đó mới tác
động trực tiếp đến hệ thống kinh tế - xã hội.
Quan hệ sở hữu đợc thể hiện bằng hệ thống pháp luật (kể cả các qui
định dới luật) tạo nên chế độ sở hũ.
Chế độ sở hữu bao gồm các quyền nh quyền sở hữu, quyền quản lý kinh
doanh (quyền sử dụng), quyền thực hiện lợi ích kinh tế v.v
Trong tập hợp các quyền đó có thể chia làm hai nhóm quyền quan trọng
là quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh (quyền sử dụng là phần quan
trọng nhất nằm trong quyền quản lý kinh doanh).
Hai nhóm quyền này có thể thống nhất ở một chủ thể, cũng có thể phân
chia, tách biệt tơng đối ở những chủ thể khác nhau. Sự phát triển kinh tế
xã hội càng phức tạp thì sự tách biệt, tác động qua lại giữa hai nhóm quyền
này ngày càng phong phú, đa dạng.
Lý luận về sự tách biệt tơng đối giữa hai nhóm quyền nói trên mở ra
một bình diện mới cho việc vận dụng quan hệ sở hữu vào thực tiễn. Đây là
luận điểm chính để tìm giải pháp cải cách cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà
nớc và giải quyết quan hệ ruộng đất hiện nay.
Mỗi phơng thức sản xuất bao giờ cũng có một loại hình sở hữu đặc trng,
giữ vai trò chủ đạo, đồng thời còn tồn tại các loại hình thức sở hữu khác.
Thực tiễn của thế giới đơng đại cho thấy, ở bất cứ nớc nào, dù mức độ phát
triển và chế độ chính trị có khác nhau, vẫn tồn tại khách quan nhiều loại hình
sở hữu. Việc khẳng định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
tồn tại 3 loại hình thức sở hữu chủ yếu: toàn dân (Nhà nớc), tập thể, t nhân là
có căn cứ khoa học thực tiễn. Mỗi loại hình thức sở hữu lại có nhiều hình
thức, mức độ thể hiện khác nhau.
Trên cơ sở cũng bản chất của một loại hình nào đó, tuỳ theo trình độ
phát triển của sức sản xuất và quản lý mà hình thành nhiều hình thức sở hữu,
nhiều cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế của sở hữu hết sức đa dạng. Mỗi thành
phần kinh tế vừa tồn tại dới hình thức tổ chức kinh tế nhất định, lại vừa có
một loại hình sở hữu đặc trng, hoặc đan xen trong đó có nhiều loại hình, hình
thức sở hữu khác nhau. Nhận thức mới cần phải xác lập một chế độ đa dạng
các loại hình và hình thức sở hữu. Song trong đó bao giờ cũng có một loại
hình sở hữu thống trị chi phối căn bản hệ thống kinh tế xã hội.
II- Thực tiển giải quyết vấn đề sở hữu ở nớc ta khi
chuyển sang phát triển nền kinh tế
Trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trớc đây, vì nhiều lý do
khách quan và chủ quan khác nhau đã dẫn tới việc xoá bỏ nhanh chóng các
loại hình t hữu, xác lập công hữu một cách hình thức, áp đặt. Hình nh quốc
doanh hoá, tập thể hoá càng nhanh thì càng chóng có chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên cũng cần thấy rõ trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, những điều
"bất hợp lý" đó đã che mờ đi. Sự điều hành tập trung cao độ theo lối hành
chính quân sự lại có hiệu quả nhất định v.v
Sau ngày thống nhất đất nớc (30/4/1975), vào thời trớc đổi mới, sai lầm
chính là ở chỗ: điều kiện trong và ngoài nớc đã có những thay đổi nhất định
thế mà vẫn quá "say sa" với kinh nghiệm cũ, đem áp dụng một cách máy
móc nhng tiến trình cải biến quan hệ sở hữu đã làm. ở đây lại một lần nữa
phủ định tính khách quan và vai trò kinh tế của các loại hình sở hữu khi công
hữu còn rất phát triển, làm thiệt hại đến lợi ích kinh tế của ngời lao động, kìm
hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất.
14

Xem chi tiết: v2289


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét