Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không – Airimex giai đoạn 2004- 2008

Chuyên đề tốt nghiệp 2
Kết cấu của chuyên đề bao gồm ba phần:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhập khẩu hàng hóa và vai trò
của nhập khẩu.
- Chương 2: Hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp phân tích thống
kê phân tích tình hình nhập khẩu của Airimex giai đoạn 2004 – 2008.
- Chương 3: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình
hình nhập khẩu của Airimex giai đoạn 2004 - 2008.
Trong thời gian thực tập tại công ty Airimex em đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình của các cán bộ nhân viên trong công ty và sự nhiệt tình hướng dẫn của
Thạc sĩ Trần Quang. Tuy nhiên do thời gian thực tập và khả năng chuyên môn
còn hạn chế nên chuyên đề thực tập không thể tránh khỏi những thiếu sót, nhận
định chủ quan chưa toàn diện, vì vậy em mong được những ý kiến đóng góp từ
phía các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 3
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động nhập khẩu
hàng hóa và vai trò của nhập khẩu
1.1. Khái niệm về nhập khẩu hàng hóa và phân loại
1.1.1. Khái niệm
Nhập khẩu là mua hàng hóa và dịch vụ của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ
khác nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu là một
hoạt động quan trọng trong thương mại quốc tế, nó tác động trực tiếp và quyết
định đến sản xuất và đời sống trong nước. Hoạt động nhập khẩu cùng với xuất
khẩu cấu thành nên nghiệp vụ ngoại thương đóng góp không nhỏ vào sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Theo định nghĩa của SNA thì nhập khẩu là mua hàng hóa, dịch vụ giữa
các đơn vị thường trú và không thường trú của các quốc gia.
Ngày nay, nhập khẩu không chỉ đơn thuần với ý nghĩa là mua hàng hóa
vượt qua biên giới quốc gia mà còn gắn với hoạt động chuyển giao công nghệ -
khoa hoc - kỹ thuật. Với việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ
giữa các quốc gia nhằm mục đích kinh tế và tối đa hóa lợi nhuận, hoạt động nhập
khẩu nói riêng và thương mại quốc tế nói chung đã thể hiện được sự gắn bó chặt
chẽ giữa kinh tế quốc gia và kinh tế thế giới.
1.1.2. Phân loại
1.1.2.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu trong đó người bán (nhà xuất
khẩu, người sản xuất, người cung cấp) và người mua (nhà nhập khẩu) quan hệ
trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thỏa thuận
về hàng hóa, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 4
Ưu điểm của phương thức này là cho phép người xuất khẩu nắm bắt được
nhu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả dó đó người bán có thể
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường, giúp xây dựng chiến lược quốc tế phù
hợp, hơn thế giúp người bán không bị chia sẻ lợi nhuận.
Tuy nhiên kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp đòi hỏi các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu phải có những cán bộ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: giỏi
về giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là
nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo, như vậy mới đảm bảo có hiệu quả. Đây
vừa là yêu cầu để đảm bảo hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp vừa là
điểm yếu của đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam khi tiếp cận với thị
trường thế giới. Hơn thế khi kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp chi phí tiếp thị
thị trường thế giới cao nên những doanh nghiệp có quy mô nhỏ vốn ít nên xuất
nhập khẩu ủy thác có lợi hơn.
1.1.2.2. Nhập khẩu ủy thác:
Nhập khẩu ủy thác là hình thức nhập khẩu được thực hiện nhờ sự giúp đỡ
của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định.
Người trung gian phổ biến trong hoạt động xuất nhập khẩu là đại lý và môi giới.
Đại lý là một người hay một công ty ủy thác cho người khác, công ty khác
thực hiện việc mua bán hoặc dịch vụ cho việc mua bán như quảng cáo, vận tải và
bảo hiểm. Quan hệ giữa người ủy thác và đại lý thể hiện trên hợp đồng đại lý. Có
thể phân loại đại lý theo các tiêu thức khác nhau:
 Phân loại theo phạm vi quyền hạn đại lý được ủy thác:
- Đại lý toàn quyền (Universal Agent): là hình thức mà người đại lý được
phép thay mặt người ủy thác làm mọi việc mà người ủy thác làm.
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 5
- Tổng đại lý (General Agent): là hình thức người đại lý chỉ được phép thay
mặt người ủy thác thực hiện một số các công việc nhất định như ký hợp đồng
mua bán…
- Đại lý đặc biệt (Special Agent): là hình thức mà người đại lý chỉ thực hiện
một số công việc hạn chế mà nội dung của công việc do người ủy thác quyết
định như ủy thác mua một khối lượng hàng với chất lượng và giá cả xác định.
 Phân loại theo nội dung quan hệ giữa người đại lý và người ủy thác:
- Đại lý ủy thác (đại lý thụ ủy): là hình thức mà người đại lý được chỉ định
để hành động thay cho người ủy thác. Thù lao cho người đại lý thường là một
khoản tiền hay tỉ lệ phần trăm trị giá của lô hàng vừa thực hiện.
- Đại lý hoa hồng (Commission Agent): là người được ủy thác tiến hành hoạt
động với danh nghĩa của mình, nhưng với chi phí của người ủy thác, thù lao của
người đại lý hoa hồng là một khoản tiền hoa hồng tùy theo khối lượng và tính
chất của công việc được ủy thác.
- Đại lý kinh tiêu (Merchant Agent): là người đại lý hoạt động với danh nghĩa
và chi phí của mình, thù lao của người này là khoản chênh lệch giá bán và giá
mua.
Môi giới – người môi giới (Broker): là thương nhân trung gian giữa bên
mua và bên bán, được bên mua hoặc bên bán ủy thác tiến hành bán hoặc mua
hàng hóa hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp vụ môi giới, người môi giới không
đứng tên của chính mình, mà đứng tên của người ủy thác, không chiếm hữu hàng
hóa và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người ủy thác về việc khách hàng
không thực hiện hợp đồng. Quan hệ giữa người ủy thác và người môi giới dựa
trên ủy thác từng lần, không dựa vào hợp đồng.
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 6
Ưu điểm của hình thức nhập khẩu ủy thác là thông qua người trung gian
thường là những người am hiểu thị trường xâm nhập, pháp luật và tập quán buôn
bán của địa phương, họ có khả năng đẩy mạnh buôn bán và tránh bớt rủi ro cho
người ủy thác. Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật
chất nhất định, do đó khi sử dụng họ, người ủy thác có thể giảm bớt đầu tư trực
tiếp vào nước tiêu thụ hàng. Ngoài ra nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa
chọn phân loại, đóng gói, người ủy thác giảm bớt chi phí vận tải.
Tuy nhiên do dựa vào bên trung gian nên công ty xuất nhập khẩu mất sự
liên hệ trực tiếp với thị trường, vốn hay bị bên nhận đại lý chiếm dụng, công ty
phải đáp ứng những yêu sách của đại lý và môi giới, lợi nhuận bị chia sẻ.
1.1.2.3. Nhập khẩu trong thương mại đối lưu
Thương mại đối lưu (Counter – Trade) hay còn gọi là hình thức xuất nhập
khẩu liên kết là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với
nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có
giá trị tương đương. Mục đích của xuất nhập khẩu liên kết không phải nhằm thu
ngoại tệ, mà thu về một hàng hóa khác có giá trị tương đương.
Như vậy một doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa trong thương mại đối lưu
có nghĩa là họ đã xuất khẩu một lượng hàng hóa có giá trị tương đương để thu về
lượng hàng hóa nhập khẩu đó.Các hình thức thương mại đối lưu chủ yếu là: hình
thức hàng đổi hàng (barter), trao đổi bù trừ (Compensation).
- Hình thức hàng đổi hàng: nghĩa là hai bên trao đổi với nhau những hàng
hóa có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Trong
nghiệp vụ hàng đổi hàng cổ điển, người ta không dùng tiền để thanh toán và chỉ
có hai bên tham gia, còn ngày nay có thể dùng một phần tiền để thanh toán
thương vụ và có thể có nhiều hơn hai bên tham gia.
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 7
- Hình thức trao đổi bù trừ: trong nghiệp vụ bù trừ hai bên trao đổi với
nhau trên cơ sở ghi giá trị hàng giao, hàng nhận, đến cuối kỳ hạn hai bên mới so
sánh, đối chiếu giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ
tiền hàng như thế mà mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu
cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
Nhìn chung dù tiến hành theo hình thức nào thì đều phải tôn trọng nguyên
tắc cân bằng được thể hiện là: cân bằng về mặt hàng (mặt hàng quý đổi lấy mặt
hàng quý, mặt hàng ế thừa đổi lấy mặt hàng ế thừa), cân bằng về mặt điều kiện
giao dịch (cùng giao FOB cảng đi hoặc cùng giao CIF cảng đến), cân bằng về cơ
sở giá cả (cùng tính cao hơn hoặc thấp hơn giá quốc tế), cân bằng về tổng giá trị
hàng giao cho nhau.
1.1.2.4. Hình thức tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước
đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất khẩu bao
gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ
ra ban đầu.
Đặc điểm của giao dịch tái xuất là luôn luôn thu hút ba nước: nước xuất
khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Nên còn gọi giao dịch tái xuất là giao
dịch ba bên hay giao dịch tam giác. Người bán vừa là người mua, sau mỗi
chuyến hàng đều có việc thanh toán bằng tiền.
Tái xuất có thể được thực hiện bằng một trong hai hình thức sau: tái xuất
theo đúng nghĩa và chuyển khẩu.
- Tái xuất theo đúng nghĩa: là hình thức hàng hóa đi từ nước xuất khẩu đến
nước tái xuất rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu.
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 8
Ngược chiều với sự vận động của hàng hóa là sự vận động của đồng tiền: nước
tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và nhận tiền từ nước nhập khẩu.
- Chuyển khẩu là hình thức trong đó hàng hóa từ nước xuất khẩu được
chuyển trực tiếp sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu
và thu tiền của nước nhập khẩu. Có ba hình thức chuyển khẩu:
+ Hàng từ nước xuất khẩu được trở thẳng sang nước nhập khẩu.
+ Hàng từ nước xuất khẩu được chở đến nước tái xuất nhưng không làm
thủ tục vào nước tái xuất mà được chở sang nước nhập khẩu.
+ Hàng từ nước xuất khẩu được chở đến nước tái xuất, làm thủ tục nhập
vào kho ngoại quan ở nước tái xuất, sau đó được xuất khẩu sang nước nhập
khẩu.
1.1.2.5 Hình thức đấu thầu quốc tế
Đấu thầu quốc tế là phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua
(tức là người gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (tức
người dự thầu) báo giá mình muốn bán, sau đó người mua sẽ chọn mua của
người nào bán rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả với những điều kiện
đã nêu.
Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua
sắm và thi công các công trình của Nhà nước, các thiết bị máy móc tiên tiến hiện
đại, nhất là ở các nước đang phát triển. Ở nước ta, nhập khẩu thiết bị máy móc
theo phương thức đấu thầu quốc tế được áp dụng cũng khá nhiều. Các công ty
nhập khẩu trong nước công bố trước điều kiện mua hàng để lựa chọn ra nhà cung
cấp ở nước ngoài nào đáp ứng tốt nhất các điều kiện đã nêu.
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 9
1.1.2.6. Đấu giá quốc tế:
Đấu giá quốc tế là một phương thức hoạt động thương mại, được tổ chức ở
một nơi nhất định tại đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu
giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn được người mua trả giá cao
nhất.
Hàng hóa nhập khẩu được tiến hành theo phương thức giao dịch đấu giá
quốc tế thường là những mặt hàng khó tiêu chuẩn hóa và chúng được đưa ra
đấu giá ở những trung tâm đấu giá quốc tế nổi tiếng. Đấu giá có thể được chia
thành hai loại hình chính:
- Loại hình trả giá lên: là hình thức bán đấu giá theo đó người trả giá cao
nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.
- Loại hình đặt giá xuống: là hình thức đấu giá theo đó người đầu tiên chấp
nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp là người có quyền
mua hàng.
Nhưng nếu xét theo hàng hóa – đối tượng đấu giá thì cũng có thể chia
thành hai loại:
- Đấu giá thương nghiệp: trong đó hàng hóa được phân lô, phân loại, có
thể được sơ chế, đại bộ phận người dự là nhà buôn.
- Đấu giá phi thương nghiệp: hàng hóa được bán với mục đích như thanh
lý vật vô thừa nhận, giải quyết hàng tồn kho, thanh lý công ty phá sản …, đại bộ
phận người tham gia là người tiêu dùng.
Như vậy nhập khẩu hàng hóa được tiến hành theo những phương thức
giao dịch mua, bán nhất định. Mỗi phương thức quy định thủ tục tiến hành, điều
kiện giao dịch, thao tác và chứng từ cần thiết cho giao dịch nên có những ưu
nhược điểm riêng. Vì thế tùy vào điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp (quy
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 10
mô vốn, đặc điểm hàng hóa mua bán, năng lực cán bộ …) mà lựa chọn phương
thức giao dịch thích hợp hoặc phối hợp nhiều phương thức giao dịch cùng một
lúc.
1.2. Quy trình hoạt động nhập khẩu ở các doanh nghiệp
1.2.1. Nghiên cứu thị trường và xác định mặt hàng cần nhập khẩu
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất
cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Hoạt động xuất nhập
khẩu thường phức tạp hơn hoạt động thương mại nội địa vì bạn hàng ở cách xa
nhau, hoạt động chịu sự điều tiết của nhiều hệ thống luật pháp, hệ thống tài
chính – tiền tệ khác nhau… Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình
điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản
phẩm và phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường
là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số
liệu đó và rút ra kết luận giúp nhà quản lý đưa ra kết luận đúng đắn lập kế
hoạch marketing.
Công việc đầu tiên của người làm công tác nghiên cứu thị trường là và thu
thập những thông tin có liên quan đến thị trường và mặt hàng mình cần quan
tâm. Có hai phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu thị trường là: phương pháp
nghiên cứu văn phòng hay nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu hiện trường.
- Nghiên cứu văn phòng bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư
liệu xuất bản hay không xuất bản. Đây là phương pháp phổ biến nhất và tương
đối ít tốn kém. Tài liệu nghiên cứu thường là thông tin lấy từ các tổ chức quốc
tế như: Trung tâm thương mại Quốc tế, hiệp định chung về thương mại và thuế
quan, tổ chức thương mại và phát triển của Liên hợp quốc, cơ quan Thống kê
của Liên Hợp Quốc… Nguồn thông tin quan trọng thứ hai là các sách báo
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A
Chuyên đề tốt nghiệp 11
thương mại do các tổ chức quốc gia hoặc cá nhân xuất bản như: Niên giám
thống kê xuất khẩu của các nước, bản tin Reuter về các loại mặt hàng, thời báo
tài chính… Nguồn thông tin quan trọng thứ ba là quan hệ với thương nhân. Số
liệu thống kê là một trong những loại thông tin quan trọng nhất, được sử dụng
nhiều nhất trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Tuy
nhiên phương pháp nghiên cứu văn phòng có hạn chế là chậm và mức độ tin
cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu văn phòng cũng nên cần bổ sung thêm kết quả
nghiên cứu hiện trường.
- Nghiên cứu hiện trường là phương pháp thu thập thông tin chủ yếu thông
qua tiếp xúc với các thương nhân tại hiện trường. Doanh nghiệp cử người đến
tận thị trường để tìm hiểu tình hình. Đây là một phương pháp quan trọng trong
nghiên cứu thị trường, tuy tốn kém hơn phương pháp nghiên cứu văn phòng
nhưng giúp doanh nghiệp mau chóng nắm được những thông tin chắc chắn và
toàn diện. Về mặt trình tự nghiên cứu hiện trường, có thể được thực hiện sau
khi đã sơ bộ phân tích đánh giá những kết quả nghiên cứu văn phòng. Trước hết
cần xử lý sơ bộ các thông tin về các thị trường đã đề cập, chọn ra thị trường có
nhiều triển vọng nhất. Sau đó căn cứ vào kết quả lựa chọn để tiến hành nghiên
cứu hiện trường và lập kế hoạch khảo sát. Nội dung chính trong nghiên cứu
hiện trường gồm xác định những vấn đề của một mặt hàng cụ thể và kiểm tra
các cách thu thập thông tin khác.
Thông qua nghiên cứu thị trường doanh nghiệp nhập khẩu có thể nắm bắt
được nhu cầu của thị trường nội địa, cũng như nguồn cung ứng của đối tác
nước ngoài. Doanh nghiệp cần xác định xem khách hàng hiện nay là những ai,
có nhu cầu về mặt hàng gì? Phân nhóm khách hàng theo nghề nghiệp, tuổi, dân
tộc , giới tính… Nhịp điệu mua hàng của các nhóm khách hàng ra sao? Sản
SV: Hoàng Minh Hồng Lớp Thống kê 47A

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét