Công thức tính các chỉ số thước đo
Để tính các chỉ số trên cần có các giá trị tối thiểu và tối đa (các giá trị biên) được chọn và
quy định cho từng chỉ số. Mỗi chỉ số thước đo tính được cho một giá trị nằm trong khoảng
từ 0 đến 1 khi áp dụng công thức tính chung sau:
Chỉ số thước đo =
Giá trị thực – giá trị nhỏ nhất
Giá trị lớn nhất – giá trị nhỏ nhất
Các giá trị biên để tính chỉ số thước đo
Giới hạn trên Giới hạn dưới
- Tuổi thọ (năm) 85 25
- Tỷ lệ người lớn biết chữ (%) 100 0
- Tỷ lệ nhập học của các cấp GD (%) 100 0
- GDP thực tế đầu người (PPP$) 40 000 100
- Chỉ số thu nhập
Chỉ số thu nhập tính được khi sử dụng số liệu GDP thực tế bình quân đầu người điều chỉnh
theo phương pháp sức mua tương đương (PPP$) phản ánh mức sống hợp lý của con người.
Công thức tính:
Chỉ số thu nhập đầu người =
log(GDP/người) – log(100)
log(40000) – log(100)
- Chỉ số tuổi thọ
Chỉ số tuổi thọ bình quân đo thành tựu tương đối về tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh của
một quốc gia, giúp phản ánh cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh.
Công thức tính:
Chỉ số tuổi thọ trung bình =
Tuổi thọ trung bình – 25
85 – 25
5
- Chỉ số giáo dục
Chỉ số giáo dục đo thành tựu tương đối của một quốc gia trên cả hai thước đo về tỷ lệ
người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục: tiểu học, trung học và đại học.
Công thức tính:
Chỉ số giáo dục = 2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ + 1/3 tỉ lệ nhập học cấp giáo dục
1.2.2 HDI – Chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển con người
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI) là thước đo tổng hợp
về sự phát triển của con người phản ánh các thành tựu chung của một quốc gia theo 3
ba phương diện của sự phát triển con người:
- Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình tính từ lúc
sinh.
- Kiến thức, được đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ (với quyền số 2/3) và tỷ lệ nhập
học các cấp giáo dục tiểu học, trung học và đại học (với quyền số 1/3).
- Một mức sống hợp lý, được đo bằng GDP thực tế đầu người (PPP$).
Để tính được chỉ số HDI, cần phải tính từng chỉ số cho ba phương diện trên. Chỉ số HDI
tính được là giá trị trung bình của các chỉ số thước đo:
6
HDI =
3
INEA
III
++
Trong đó:
A
I
: chỉ số đo tuổi thọ
E
I
: chỉ số đo giáo dục
IN
I
: chỉ số đo thu nhập (mức sống)
HDI nhận các giá trị biến thiên từ 0 đến 1. Trong thực tế, giá trị HDI của một nước chỉ ra
khoảng cách giữa mức độ tiến bộ trong phát triển con người đã đạt được với giá trị cao
nhất có thể (là 1). Thách thức đặt ra đối với mỗi nước là tìm ra các giải pháp để rút ngắn
khoảng cách đó.
HDI từ 0,8 – 1 được coi là cao, từ 0,5 – 0,8 được coi là trung bình và từ 0 – 0,5 được coi là
thấp.
Phần 2. Thực trạng và đánh giá các tiêu chí phát
triển con người tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay
7
2.1 Đánh giá các tiêu chí cấu thành HDI
2.1.1 Tiêu chí thu nhập
-Mức độ thu nhập:
GDP bình quân đầu người trên cơ sở cân bằng sức mua (PPP USD) và GDP bình
quân đầu người thực tế (USD) từ năm 1990-2009
Gần 20 năm phát triển (1990-2008)
tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN
liên tục giữ ở mức cao, tốc độ tăng
GDP bình quân giai đoạn 1990-
2008 là 7,56%/năm. Tốc độ tăng
kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng
dân số được kìm hãm, đã dẫn đến
mức thu nhập GDP bình quân trên
đầu người mỗi năm một tăng. Nếu
năm 1990, GDP trên đầu người của
VN chỉ khoảng trên 100 USD, thì
đến năm 2007, GDP/người đã đạt
835 USD, tăng trên 8 lần. Năm
2008, GDP trên đầu người đạt 1.024
USD/người, với mức thu nhập này,
VN lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm
nước nghèo (nhóm nước có thu
nhập thấp nhất: GDP/người dưới
935 USD). GDP trên đầu người năm
2009 đạt 1.060 USD, Việt Nam
phấn đấu GDP trên đầu người năm
2010 đạt 1.200 USD.
-Các thành tựu đạt được:
Theo tính toán từ các số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP bình quân đầu người tính bằng
USD, nếu năm 1995 nước ta mới đạt 288 USD, đứng thứ 10 khu vực, thứ 44 châu Á, thứ
177 thế giới, tức là còn là một trong hơn 20 nước có mức GDP bình quân đầu người thấp
nhất thế giới, thì đến năm 2003 đã đạt 492 USD, tương ứng đứng thứ 7, thứ 39, thứ 142.
8
Năm
GDP bình quân đầu
người
(PPP USD)
GDP bình quân đầu
người
thực tế (USD)
1990 1.000
105
1993 1.100
-
1994 1.250
-
1995 1.010
288
1996 1.040
-
1997 1.208
-
1998 1.236
-
1999 1.630
-
2000 1.689
391
2001 1.860
413
2002 1.996
440
2003 2.070
492
2004 2.300
552
2005 2.490
636
2006 2.745
723
2007 3.071
835
2008 3.331 1.024
2009 3445 1.060
Đến nay, với con số hơn 1.000 USD/người, năm 2008 đã đánh dấu mốc phát triển của nền
kinh tế VN chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập trung
bình dưới với GDP bình quân đầu người khoảng từ 936 đến 3.705 USD.
Ngày 14/4/2010, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố đánh giá của Nhóm đánh giá độc
lập (IEG) của WB, trong đó cho rằng những thành tựu phát triển của Việt Nam trong nhiều
năm qua là "rất ấn tượng". Năm 2009, Việt Nam đã chuyển từ nước nghèo sang nước có
thu nhập trung bình. IEG cho rằng với tốc độ tăng trưởng trung bình 7,2%/năm trong thập
kỷ trước khi xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009, khoảng 35 triệu người Việt
Nam đã thoát nghèo.
-Những vấn đề còn tồn tại
Mặc dù, năm 2008 là năm đánh dấu Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước nghèo nhưng theo
xếp hạng của Ngân hàng thế giới tháng 10/2008 thì Việt Nam đứng hạng 170 về thu nhập
bình quân đầu người tính theo tỷ giá VNĐ/USD, và đứng thứ 156 về thu nhập bình quân
tính đầu người theo phương pháp sức mua tương đương (PPP) trong tổng số 207 nước,
vùng lãnh thổ. Quy mô GDP, qui mô xuất khẩu chiếm tỷ trọng tương ứng là 0,34% và
0,3% so với tổng giá trị nền kinh tế và xuất khẩu của toàn thế giới. Các chỉ số xếp hạng về
môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, tham nhũng và chỉ số phát triển giáo dục của
Việt Nam đều có vị trí xếp hạng thấp trong các nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, do bị ảnh
hưởng bởi lạm phát nên GDP trên đầu người tính theo sức mua tương đương ở Việt Nam
còn cao hơn nhiều so với thực tế. Lạm phát đã làm giảm sức mua của người nghèo và làm
tăng bất bình đẳng về thu nhập.
Số liệu về mức chêch lệch năm 1993 phản ánh phân bố thu nhập theo vùng là di sản từ
nhiều năm nay. Tính lịch sử này có lẽ do phân bố tài nguyên thiên nhiên phục vụ nông
nghiệp không đồng đều, và do nông nghiệp vẫn là nguồn thu nhập chính của các vùng cho
đến nay. Hiện tượng đô thị hóa gia tăng, đặc biệt với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội,
Hải Phòng và Đà Nẵng cũng rất đáng lưu tâm.
CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA CÁC VÙNG:
Phân bố thu nhập đầu người theo vùng – 1993
Vùng Thu nhập đầu người
(1000 đồng)
Số dân thành thị
(100000 người)
Số dân nông thôn
(100000 người)
Tỉ số thu nhập đầu
người nông thôn so
9
với thành thị
1 1258 1576,5 10532,8 0,16
2 1811 2385,6 11429,2 0,15
3 1215 936,2 8580,7 0,17
4 1444 1704,9 5669,8 0,32
5 1364 671,5 2232,0 0,43
6 4524 4008,1 4684,8 0,18
7 1818 2364,5 13167,1 0,36
Cả
nước
1949 13647,3 56296,4 0,20
Vùng 1 : Trung du Bắc bộ
Vùng 2 : Đồng bằng sông Hồng (gồm những thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định )
Vùng 3 : Khu bốn cũ
Vùng 4 : Duyên hải miền Trung
Vùng 5 : Tây Nguyên
Vùng 6 : Đông Nam bộ (gồm TP Hồ chí Minh, Gia Định, Biên Hòa, Vũng Tàu )
Vùng 7 : Đồng bằng sông Cửu Long
CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA THÀNH THỊ - NÔNG THÔN
Sự chêch lệch thu nhập thành thị và nông thôn cũng là một sự kiện thường thấy ở những
nước nông nghiệp. Từ những thập niên vừa qua, giá quốc tế những mặt hàng nhóm một
(nông, lâm sản, nguyên liệu thô, sơ chế) giảm đi so với giá những mặt hàng công nghiệp.
Vì công nghiệp thường có địa bàn hoạt động trong thành thị và vùng lân cận, mức thu nhập
của dân thành thị tăng lên so với dân ở nông thôn. Ngoài ra, những tiến bộ kỹ thuật trong
nông nghiệp và công nghiệp chế biến khiến mức cầu lao động nông nghiệp giảm, lượng
10
cung lao động vượt cầu, gây thêm tác động tiêu cực trên mức thu nhập của người dân ở
nông thôn. Ngày nay, với sự phát triển của khâu dịch vụ cũng chủ yếu là ở thành thị, sự
chêch lệch thu nhập này lại càng tăng thêm.
Thu nhập ở thành thị và nông thôn của các vùng - 1993
Vùng Tổng thu nhập
(tỉ đồng)
Thu nhập đầu
người nông
thôn
(nghìn đồng)
Tổng thu nhập
nông thôn
(tỉ đồng)
Thu nhập đầu
người thành thị
(nghìn đồng)
Tổng thu
nhập thành
thị
(tỉ đồng)
1 15233533 747,25 7870700 4670,35 7363807
2 25008100 915,0 10452777 6100,00 14552160
3 11563155 820,8 7043039 4828,04 4519973
4 10649066 968,3 5490261 3025,8 5158989
5 3960374 1044,0 2330208 2427,8 1630268
6 39327132 1459,2 6836060 8106,4 32491261
7 28236450 1430,1 18830126 3972,5 9392976
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học vừa công bố tại Hội nghị cập nhật nghèo do Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức cuối tháng 3 năm 2007: khoảng cách giữa các nhóm
người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất đang bị nới rộng một cách liên tục và đáng kể.
Cụ thể là: năm 1993, chi cho tiêu dùng bình quân đầu người của gia đình giàu nhất cao gấp
5 lần so với gia đình nghèo nhất thì tỷ lệ này tăng lên 6,3 lần vào năm 2004. Do vậy, tỷ lệ
chi tiêu bình quân đầu người của nhóm giàu nhất trong tổng chi tiêu dùng xã hội tăng từ
41,8% lên 44,7%, trong khi đó nhóm nghèo nhất lại giảm từ 8,4% xuống còn 7,1% ở cùng
thời kỳ. Mặc dù đời sống của người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm, nhưng chỉ số bất
bình đẳng về thu nhập (Gini) ở Việt Nam còn cao, và tăng qua các năm (năm 2004 Gini là
0,423, năm 2006 hệ số này là 0,425). Hệ số Gini cao thể hiện phân hóa thu nhập, phân hóa
giàu nghèo cao giữa các tầng lớp dân cư.
-Kết luận:
Khi thu nhập tăng, mức sống của dân cư được đảm bảo các mặt về thể lực, trí lực và tinh
thần được quan tâm tích cực và ngược lại, khi thu nhập giảm mức độ chi tiêu của dân cư sẽ
giảm tác động tiêu cực đến chất lượng dân số. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân
11
phối thu nhập đang có xu hướng gia tăng, người giàu càng giàu thêm, các khu đô thị thành
phố càng ngày càng phát triển trong khi người nghèo càng ngày càng khó thoát nghèo, và
những vùng sâu vùng sa và những vùng đặc biệt khó khăn vẫn chưa có khả năng phát triển,
do thiếu vốn, thiếu lao động do đó chất lượng dân số vẫn ở mức thấp. Thu nhập tăng và
phân phối thu nhập tiến đến sự hợp lí luôn luôn là cái hướng đến của toàn xã hội.
Chúng ta có thể thấy được rằng là thu nhập bình quân đầu người ở nước ta ngày càng gia
tăng, điều này được thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người cũng như tốc độ tăng trưởng
GDP, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm dần theo các năm và mức sống của đại bộ phận dân
cư được cải thiện rõ rệt. Để đạt được những thành quả đó thì chúng ta phải kể đến các
chính sách của Nhà nước, trong quá trình phát triển kinh tế có sự hài hòa giữa các vùng,
giữa các nền kinh tế được chú trọng phát triển cũng như là các chính sách hỗ trợ người
nghèo phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần phải chú trọng đến các chính sách phát triển toàn diện để tránh
rơi vào những cái “bẫy” thu nhập trung bình như các nước Đông Nam Á khác.
2.1.2 Tiêu chí tuổi thọ
- Mức tuổi thọ
Có cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe là một tiêu chí để đánh giá về sự phát triển của con
người. Và chỉ số tuổi thọ đã được chọn làm thước đo cho tiêu chí này. Chỉ số tuổi thọ được
tính như sau:
Chỉ số tuổi thọ trung bình T =
(Với quy ước: 85 là giá trị cực đại và 25 là giá trị cực tiểu của tuổi thọ)
Gần 20 năm nay từ 1990, UNDP (chương trình phát triển của Liên hiệp quốc) đều đặn
công bố các Báo cáo phát triển con người HDR (Human Development Report). Các báo
cáo HDR từ năm 1990 đến năm 2007 đã thống kê rằng:
Tuổi thọ bình quân trung bình của Việt Nam :
12
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tuổi
thọ
bình
quân
trung
bình
62,7 63,4 66,0 66,4 67,4 67,8 67,8 68,2 68,6 69,0 70,5 70,8 73,7
- Việt Nam trong so sánh với một số nước ASEAN và châu Á
Ở bảng này, Việt Nam hơn được Trung Quốc,
Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Ấn Độ,
Mianma.
- Những thành tựu đạt được :
Trong các chỉ số phát triển cấu tạo nên HDI, Việt Nam có chỉ số tuổi thọ tương đối có sự
lạc quan. Tính ra trong 13 năm, từ năm 1993 đến năm 2005, ta đã nâng tuổi thọ bình quân
lên 11 tuổi. Việt Nam cũng có thứ hạng cao về tuổi thọ trên thế giới (T = 0,812, tuổi thọ
bình quân 73,7, xếp thứ 56/177 nước). Theo số liệu mới mà chương trình phát triển Liên
Hợp Quốc (UNDP) đưa ra trong báo cáo toàn cầu sáng ngày 5/10/2009 tại Bangkok, Thái
Lan thì tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã là 74,3 đứng thứ 54 thế giới.
Đạt được thành tựu như vậy là do nước ta đã làm tốt công tác chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ
sinh. Cuộc khảo sát năm 2002 cho thấy: Cứ 1000 ca sinh ra ở Việt Nam chỉ có 39 trẻ bị tử
13
Nước Tuổi thọ T Ghí chú
Singapore 79,4 0,907 > VN
Hàn Quốc 77,9 0,882 > VN
Brunây 76,7 0,862 > VN
Malayxia 73,7 0,812 = VN
Thái Lan 71,5 0,776 < VN
Trung Quốc 72,5 0,792 < VN
Philippin 71 0,767 < VN
Việt Nam 73,7 0,812
Inđônêxia 69,7 0,745 < VN
Ấn Độ 63,7 0,645 < VN
Mianma 60,8 0,596 < VN
vong (nhóm dân nghèo), có 14 trẻ bị tử vong (nhóm dân giàu). Chết dưới 5 tuổi thì trong số
1000 trẻ có 53 trẻ chết (nhóm dân nghèo) và 16 trẻ chết (nhóm dân giàu). Các con số tương
ứng ở Inđonexia là: (78, 23, 109, 29). Đạt đến thành tựu này còn có sự tác động gián tiếp
của kinh tế và giáo dục. Trình độ học vấn của bố mẹ tăng lên và điều kiện sinh hoạt vật
chất được cải thiện cũng làm giảm tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi.
- Những vấn đề còn tồn tại :
Tuy đã đạt được một số thành tựu nhưng hệ thống y tế nước ta vẫn có rất nhiều bất cập.
Mạng lưới chăm sóc y tế ở nông thôn yếu kém. Các bệnh nhân ở khắp nơi đổ dồn về các
thành phố lớn, dẫn đến tình trạng quá tải. Thủ tục khám chữa bệnh còn rườm rà, nhất là đối
với những người sử dụng Bảo hiểm y tế, họ phải đến bệnh viện nhiều ngày mới hoàn tất
một quy trình khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn đang là vấn đề
nhức nhối trong thời gian qua. Về ngân sách cho ngành y tế, Việt Nam chúng ta hiện nay
mới có 8 USD cho một người dân chăm sóc sức khỏe trong khi đó Singapore là 1.950
USD, Nhật là 2000 USD. Ngoài ra, sự quản lý của nước ta đối với mặt hàng thuốc còn
lỏng lẻo. Các phòng khám chữa bệnh tư nhân cũng cần được kiểm soát nghiêm ngặt hơn.
Tất cả những vấn đề trên cần sớm được hoàn thiện và giải quyết trong thời gian tới.
- Kết luận về chỉ tiêu tuổi thọ:
Chỉ số tuổi thọ đo lường thành tựu tương đối về tuổi thọ ở một nước. Chỉ số này của Việt
Nam là đáng lạc quan. Ta có thể thấy, Việt Nam chỉ có GDP tính theo đầu người xếp thứ
123 và HDI xếp thứ 105 trên thế giới nhưng lại có thứ hạng về tuổi thọ khá cao. Tuổi thọ
trung bình năm 2005 của nước ta là 73,7 xếp hạng 56 và nay là 74,3 xếp hạng 54 trên thế
giới. Chỉ số tuổi thọ T = 0,812 và nó đã có phần giúp cải thiện chỉ số và thứ hạng 105/177
của HDI. Đạt được những thành tựu như vậy là do nước ta đã làm tốt công tác chăm sóc y
tế ban đầu, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp và tỷ lệ tử vong ở bà mẹ sau khi sinh nở cũng
thấp. Trong thời gian tới, nước ta cần tiếp tục phát huy những điểm mạnh này, đồng thời
khắc phục những bất cập còn đang tồn tại.
2.1.3 Tiêu chí giáo dục
- Các chỉ tiêu giáo dục :
Giáo dục và chỉ số giáo dục là thành phần cơ bản trong HDI
Chỉ số giáo dục được tính từ hai nhân tố :
Nhấn tố a biểu thị cho số biết chữ của người lớn ( 15+ tuổi )
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét