Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay

TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
3.2.1 Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách
nhiệm của HTCT về công tác tôn giáo và QLNN đối với tôn
giáo
75
3.2.2 Công tác quản lý nhà nước cần tăng cương, tập trung hơn nữa
tới các hoạt động có tính trọng điểm, phức tạp của tôn giáo trên
địa bàn
77
3.2.3 Công tác QLNN cần quan tâm hơn đến công tác vận động quần
chúng, tín đồ, chức sắc các tôn giáo và xây dựng lực lượng
chính trị ở cơ sở
80
3.2.4 Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, công chức làm công tác
QLNN về tôn giáo
85
3.2.5 Xây dựng và hoàn thiện phương pháp công tác tôn giáo và
QLNN về tôn giáo
88
3.3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
89
3.3.1 Đối với Trung ương 89
3.3.2 Đối với tỉnh Bắc Ninh 92
KẾT LUẬN
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực
thể xã hội, ra đời và phát triển từ cả ngàn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã
trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn
tại xã hội, nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân
loại. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các
tộc người trong một quốc gia, theo cả các chiều: tích cực và tiêu cực. Những
năm gần đây, tôn giáo trên thế giới không chỉ phục hồi và phát triển, đáp ứng
nhu cầu tâm linh của con người, mà còn làm nảy sinh không ít cuộc xung đột
giữa các dân tộc trong một quốc gia, hay giữa các quốc gia với nhau.
Ở Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng,
tôn giáo đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay - năm 2011, Nhà nước ta
đã công nhận tư cách pháp nhân cho 13 tôn giáo, với 33 tổ chức Giáo hội.
Trong đó, các tôn giáo bản địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ
nước ngoài vào (ngoại sinh) đều được tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo
pháp luật. Tình hình đó như là sự phản ánh về quá trình đất nước đổi mới,
Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân được cải thiện
rõ rệt, vì thế tôn giáo càng được khẳng định rõ hơn, là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân.
Nhưng, bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành
mạnh, tuân thủ pháp luật, thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn,
2
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Trước tình hình đó, công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không
chỉ trên bình diện vĩ mô mà còn ở các khu vực, các địa phương trong cả nước.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan
trọng và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình
hình mới. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn
mạnh đến vai trò của công tác này và việc: “Tăng cường quản lý nhà nước về
tôn giáo” là một trong những giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo hiện
nay.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía Bắc của
Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh mặc dù có diện tích không lớn, nhưng dân số
lại đông và có vị trí địa lý chính trị quan trọng, nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm của đồng bằng Châu thổ Sông Hồng, có nguồn nhân lực dồi dào và là
tỉnh vốn có truyền thống ngàn năm văn hiến và cách mạng.
Số lượng và quy mô tôn giáo ở Bắc Ninh cũng không lớn, song lại là vị
trí “địa tôn giáo” rất quan trọng. Đó là, về đạo Công giáo, Bắc Ninh có Toà
Giám mục, là trung tâm, đầu não của Giáo phận Bắc Ninh, gồm 12 tỉnh khác
nhau. Còn Phật giáo, Bắc Ninh từng có trung tâm Luy Lâu mà gần hai nghìn
năm trước đã được xem là một trung tâm Phật giáo lớn, bằng hoặc hơn cả
trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành của Trung Quốc, còn đến nay,
tên chùa Dâu, Keo, Phật Tích vẫn nức tiếng toàn cõi Việt Nam. Hiện nay bên
cạnh 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo, trên địa bàn Bắc Ninh đã
xuất hiện cả đạo Tin Lành, một tôn giáo được xem là tôn giáo của thời CNH,
HĐH.
3
Trong những năm qua tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra
bình thường đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong tỉnh an tâm,
phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, về những thành tựu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tích cực tham gia phát triển kinh tế -
xã hội, các hoạt động từ thiện, nhân đạo, xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân
“sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng
nổi lên một số vấn đề có tính phức tạp. Đó là, hoạt động mê tín, dị đoan diễn
ra khá phổ biến; một số cơ sở thờ tự của tôn giáo chưa tuân thủ các quy định
của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Di sản và của các quy định của tỉnh.
Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ xin
phép; triển khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền.
Tình hình khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở cũ của giáo hội còn tiềm ẩn dấu
hiệu phức tạp; hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép và các đạo lạ trên địa
bàn tỉnh vẫn xảy ra.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh
những năm qua đã có nhiều tiến bộ, đạt được một số kết quả nhất định.
Nhưng bên cạnh đó, công tác này cũng còn một số hạn chế, như: Một bộ phận
cán bộ đảng viên nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đối với tôn giáo còn hời hợt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu
tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn
kéo dài, gây tâm trạng phản cảm cho quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo.
Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của chính quyền
nhiều lúc, nhiều nơi còn cứng nhắc.
4
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn để tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay”, để làm luận
văn thạc sỹ quản lý hành chính công.
2.Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời
gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu. Đó là: “Quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp
quyền Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển; "Một số vấn đề
cấp bách trong quản lý tôn giáo ở một số tỉnh phía Bắc" của GS.TS Đỗ Quang
Hưng; “Mác-Angghen về tôn giáo” của PGS. Nguyễn Đức Sự chủ biên); “
Một số vấn đề lý luận và thực trạng tôn giáo Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm
Vạn; Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu
quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, PGS, TS Ngô Hữu Thảo, chủ nhiệm (1998); Cuốn sách
“Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn" của GS.TS
Đỗ Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn
Thanh Xuân; “Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam” của TS.Nguyễn Đức Lữ; Đề tài
cấp Bộ “55 năm đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt
Nam (1945-2000)” của Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề tài cấp Bộ “Công tác an
ninh trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt nam” của Bộ
Công an
Những công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận và thực
tiễn của vấn đề quản lý tôn giáo, song cụ thể ở địa bàn Bắc Ninh thì chưa có.
Ở tỉnh Bắc Ninh, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng
cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hãy còn rất
5
ít đề tài đi sâu nghiên cứu, nếu có thì thời điểm nghiên cứu đã khá lâu, trước
khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, như luận văn cao cấp lý luận chính trị
của Nguyễn Quang Khải, năm 2004. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy
vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn từ việc khái quát những nhận thức chung về tôn giáo, về quản
lý nhà nước đối với tôn giáo và phân tích thực trạng công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian
qua, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở Bắc Ninh trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về tôn giáo ở Bắc Ninh trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là địa bàn tỉnh
6
Bắc Ninh; về thời gian là từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (năm
2004), đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực
tiễn công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đồng thời sử dụng các phương pháp của các khoa học cụ thể, như tổng hợp và
phân tích, khái quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, tôn
giáo học.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1.Về mặt lý luận:
Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà
nước đối với tôn giáo; khái quát mang tính lý luận từ thực tiễn công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh.
7
6.2.Về mặt thực tiễn:
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây đựng chủ
trương, biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Bắc Ninh và các tỉnh vùng đồng bằng miền Bắc có tình hình tôn giáo
tương tự với Bắc Ninh.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại
trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
TÔN GIÁO
1.1.1. Nhận thức chung về tôn giáo
Tôn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột
cùng, như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự phản ánh
mối quan hệ giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới
hữu hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục.
Theo quan điểm mác-xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã
hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
tôn giáo phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm,
niềm tin và hệ tư tưởng tôn giáo. Còn với tính cách là một thực thể, hay một
hiện tượng xã hội, tôn giáo thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, được quy định
bởi hạ tầng cơ sở xã hội. Cụ thể hơn, tôn giáo ra đời từ 3 nguồn gốc: Kinh tế -
xã hội, nhận thức và tâm lý. Là một hiện tượng xã hội, kết cấu của tôn giáo
bao gồm cả yếu tố vật chất và tinh thần, mà thông thường là các yếu tố: ý thức
(giáo lý), nghi lễ, luật lệ và tổ chức.
Cũng cần phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng và mê tín dị đoan. Tôn giáo
và tín ngưỡng có sự khác nhau, song có quan hệ chặt chẽ, mà ranh giới để
phân biệt chỉ là rất tương đối. Tín ngưỡng có các nghĩa rộng, hẹp khác nhau,
nghĩa rộng, đó là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện
tượng, một lực lượng, một điều gì đó, thông thường để chỉ một niềm tin tôn
giáo; nghĩa hẹp là các hình thức khác với tôn giáo, như người Việt Nam
9
thường gọi “tín ngưỡng dân gian”. Còn mê tín dị đoan, đó là tình trạng người
ta quá tin vào cái siêu nhiên, đến mất lý trí, mê muội, tốn tiền của và huỷ hoại
sức khoẻ, thậm chí cả sinh mạng, vậy nên “Hoạt động mê tín phải bị phê phán
và loại bỏ”. [13]
Quan điểm mác - xít về tôn giáo không dừng lại ở vấn đề bản chất,
nguồn gốc, chức năng và tính chất của nó, mà còn rất quan tâm đến việc chỉ
ra thái độ, nguyên tắc của người cộng sản khi tiếp cận, giải quyết những vấn
đề tôn giáo.
Về thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo, mặc dù cho rằng, thế
giới thống nhất ở tính vật chất, ngoài ra không có thế giới nào khác ngoài vật
chất đang tồn tại và đương nhiên không có thần thánh, ma quỷ nào tồn tại
ngoài những đam mê và dục vọng của chính con người, thế nhưng Chủ nghĩa
Mác - Lênin không bao giờ chủ trương tuyên chiến với tôn giáo, mà ngược lại
luôn tôn trọng niềm tin tôn giáo của nhân dân. C.Mác từng nói, kẻ nghịch đạo
không phải là kẻ phỉ báng thần thánh của quần chúng mà chỉ là người đồng
tình với quan điểm quần chúng, người sáng tạo ra thần thánh.
Có một số người cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin mâu thuẫn tuyệt đối
với đức tin tôn giáo, do đó không có thể dung hợp giữa chủ nghĩa xã hội và
tôn giáo và lập luận này là không đúng, vì đã chủ quan đẩy mâu thuẫn, từ mâu
thuẫn ở phương diện nhận thức - không đối kháng, trở thành mâu thuẫn đối
kháng.
Lý tưởng của những người cộng sản là xây dựng “Thiên đường” nơi
trần thế bằng bàn tay và khối óc của chính con người. Tuy vậy, người cộng
sản không hề có chủ trương phủ nhận tôn giáo mà thừa nhận nó như một nhu
cầu tất yếu của một bộ phận nhân dân trong tiến trình phát triển của lịch sử.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét