Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Deloitte Việt Nam

Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
Thứ hai là tính đầy đủ (trọn vẹn) của thông tin, tức là thông tin phản ánh
trên bảng khai tài chính không bị bỏ sót trong quá trình xử lý. Các nghiệp vụ
được ghi nhận đầy đủ, không bị khai thiếu.
Thứ ba là tính đúng đắn của tính giá, tức là tài sản cũng như chi phí đều
được tính theo phương pháp phù hợp theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện
hành.
Thứ tư là tính chính xác cơ học, tức là các phép tính số học được thực hiện
chính xác, cộng sổ chuyển sổ chính xác. Một nghiệp vụ hay một sự kiện được
ghi chép theo đúng giá trị của nó, doanh thu hay chi phí được ghi nhận đúng
kỳ, đúng khoản mục.
Thứ năm là tính đúng đắn trong phân loại và trình bày, tức là BCTC được
tuân thủ theo các quy định cụ thể trong chuẩn mực và chế độ kế toán hiện
hành về phân loại tài sản và vốn. Quá trình kinh doanh, thể hiện qua các tài
khoản tổng hợp và chi tiết được phản ánh đúng theo quan hệ đối ứng để có
thông tin hình thành BCTC chính xác. Những trường hợp đặc biệt cần được
giải trình rõ ràng.
Thứ sáu là tính đúng đắn trong phản ánh quyền và nghĩa vụ của đơn vị kế
toán, tức là tài sản được phản ánh trên BCTC phải thuộc quyền sở hữu (hoặc
sử dụng lâu dài) của đơn vị, vốn và công nợ phải phản ánh đúng nghĩa vụ
tương ứng của đơn vị (nghĩa vụ phải trả nợ, nghĩa vụ phải chia lãi cho cổ
đông góp vốn…)
“Khi có nghi ngờ liên quan đến cơ sở dẫn liệu có thể ảnh hưởng trọng yếu
đến báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải thu thập thêm bằng chứng kiểm
toán để loại trừ sự nghi ngờ đó. Nếu không thể thu thập đầy đủ bằng chứng
thích hợp, kiểm toán viên sẽ phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, hoặc ý
kiến không thể đưa ra ý kiến.” – Đoạn 19 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
500.
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
5
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
Một khoản mục khi kiểm toán cần được đảm bảo các mục tiêu chung trên.
Vì vậy, bằng chứng kiểm toán thuyết phục phải đáp ứng các mục tiêu trên của
KTV.
Bằng chứng kiểm toán thích đáng và có tính thuyết phục phải đảm bảo
hai yêu cầu là tính đầy đủ và tính thích hợp. Đoạn 08 chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam số 500 quy định: “Kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ các bằng
chứng kiểm toán thích hợp cho mỗi loại ý kiến của mình”. Sự đầy đủ và tính
thích hợp luôn đi liền với nhau nhằm đưa ra bằng chứng thích đáng.
Tính hiệu lực là khái niệm chỉ độ tin cậy hay chất lượng của bằng chứng
kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán không có hiệu lực sẽ không có tính thuyết
phục. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của bằng chứng gồm:
Thứ nhất: Tính liên quan của bằng chứng: Bằng chứng phải liên quan tới
mục tiêu kiểm toán và là cơ sở để đưa ra kết luận kiểm toán.
Thứ hai: Loại hình hay dạng của bằng chứng: Bằng chứng thu được dưới
dạng văn bản chứng từ (như biên bản kiểm kê) hoặc bằng hình ảnh có độ tin
cậy cao hơn bằng chứng bằng lời (như bằng chứng thu thập được qua phỏng
vấn).
Thứ ba: Hệ thống kiểm soát nội bộ: Bằng chứng thu được trong điều kiện
hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt có độ tin cậy cao hơn so với bằng
chứng được thu thập khi hệ thống này hoạt động kém hiệu quả. Trong môi
trường mà hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả, khả năng tồn tại sai
phạm mà hệ thống này không phát hiện ra sẽ thấp hơn.
Thứ tư: Nguồn gốc thu thập bằng chứng kiểm toán: Bằng chứng có thể
được thu thập từ bên trong đơn vị được kiểm toán, từ bên ngoài (khách hàng,
ngân hàng, nhà tài trợ, cơ quan chức năng…), từ bản thân KTV. Bằng chứng
có nguồn gốc càng độc lập với đối tượng kiểm toán thì càng có hiệu lực. Bằng
chứng thu thập từ nguồn bên ngoài đáng tin cậy hơn từ bên trong (như bản
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
6
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
sao kê của Ngân hàng đáng tin cậy hơn tài liệu do kế toán của đơn vị được
kiểm toán cung cấp). Bằng chứng có nguồn gốc từ bên trong đơn vị có độ tin
cậy cao hơn khi hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có
hiệu quả. Bằng chứng được thu thập từ bên thứ ba độc lập sẽ có hiệu lực hơn
từ bên thứ ba có liên quan. Bằng chứng được thu thập từ các chuyên gia sẽ có
tin cậy hơn từ những người có hiểu biết. Bằng chứng được KTV thu thập trực
tiếp qua so sánh, kiểm tra tài liệu, quan sát, kiểm kê có tính thuyết phục hơn
bằng chứng được thu thập gián tiếp bằng phỏng vấn hay thư xác nhận…
Thứ năm: Phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu: Mẫu được chọn có quy
mô lớn thì thuyết phục hơn quy mô nhỏ. Chọn mẫu xác suất giúp bằng chứng
cung cấp có tính giá trị hơn vì được dựa trên các quy tắc xác suất, giúp KTV
độc lập khi đưa ra xét đoán, tránh những định kiến ban đầu.
Thứ sáu: Sự kết hợp của các bằng chứng kiểm toán. Đoạn 17 Chuẩn mực
Kiểm toán Việt Nam số 500 có ghi “Bằng chứng kiểm toán có sức thuyết
phục cao hơn khi có được thông tin từ nhiều nguồn và nhiều loại khác nhau
cùng xác nhận. Trường hợp này kiểm toán viên có thể có được độ tin cậy cao
hơn đối với bằng chứng kiểm toán so với trường hợp thông tin có được từ
những bằng chứng riêng rẽ. Ngược lại, bằng chứng có từ nguồn này mâu
thuẫn với bằng chứng có từ nguồn khác, thì kiểm toán viên phải xác định
những thủ tục kiểm tra bổ sung cần thiết để giải quyết mâu thuẫn trên.”
Ngoài ra còn một số các yếu tố khác như tính chất và thời điểm của cuộc
kiểm toán, tính chất đúng lúc của việc cung cấp bằng chứng (bằng chứng
được cung cấp ngày khi KTV yêu cầu có giá trị hơn bằng chứng được cung
cấp sau thời gian trì hoãn) … Tùy vào tình huống và trường hợp cụ thể mà
KTV có thể thu thập được những bằng chứng có độ tin cậy cao nhất.
Sự đầy đủ chỉ số lượng hay quy mô cần thiết của bằng chứng kiểm toán
cần thu thập. Không có thước đo nào quy định số lượng bằng chứng bao
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
7
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
nhiêu là đủ. Điều này đòi hỏi rất nhiều ở kinh nghiệm của KTV. Vì vậy mà
các chuẩn mực thường chấp nhận KTV thu thập bằng chứng kiểm toán ở mức
độ “có tính thuyết phục” hơn là “có tính chất chắc chắn”. Khi thu thập các
bằng chứng kiểm toán, KTV cần cân nhắc tới các tình huống cụ thể và các
yếu tố ảnh hưởng tới tính đầy đủ của bằng chứng. Những yếu tố này gồm:
Thứ nhất: Tính hiệu lực của bằng chứng: Bằng chứng có độ tin cậy càng
thấp thì càng cần thu thập nhiều. Một bằng chứng có độ tin cậy thấp chưa đủ
để có thể nhận định một cách xác đáng đối tượng kiểm toán cụ thể.
Thứ hai: Tính trọng yếu: Khoản mục được kiểm toán càng trọng yếu thì số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều vì các sai phạm được
xem là trọng yếu thường có giá trị lớn, ảnh hưởng nhiều tới báo cáo tài chính.
Các KTV cần thu thập nhiều bằng chứng để có ý kiến xác đáng về đối tượng
kiểm toán.
Thứ ba: Mức độ rủi ro: Đối tượng kiểm toán cụ thể được đánh giá là có
mức độ rủi ro càng cao thì số lượng bằng chứng kiểm toán thu thập càng
nhiều và ngược lại. Khoản mục có độ rủi ro cao thường là khoản mục tiền
(gọn nhẹ, dễ biển thủ, số lượng nghiệp vụ lớn…) hay khoản mục hàng tồn
kho (khó khăn khi kiểm kê, số lượng nghiệp vụ lớn…). Để phát hiện ra các
sai phạm, KTV cần tăng cường kiểm tra chi tiết các khoản mục này, số lượng
bằng chứng kiểm toán cần thu thập phải tăng tương ứng. Ngoài ra, đơn vị
được kiểm toán có tình hình tài chính không tốt, có tiền sử hoặc đang dính líu
tới kiện tụng cũng có rủi ro cao, số lượng bằng chứng thu thập càng cần
nhiều, vì lúc này nó ảnh hưởng tới rất nhiều người quan tâm và sử dụng báo
cáo tài chính, có thể còn liên quan tới truy cứu trách nhiệm hình sự.
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
8
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
Biểu 1.
Quan hệ giữa rủi ro và số lượng bằng chứng
Trường hợp
Rủi ro kiểm
toán
Rủ ro tiềm
tàng
Rủi ro kiểm
soát
Rủi ro phát
hiện
Số lượng
bằng chứng
1 Cao Thấp Thấp Cao Thấp
2 Thấp Thấp Thấp Trung bình Trung bình
3 Thấp Cao Cao Thấp Cao
4 Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình
5 Cao Thấp Trung bình Trung bình Trung bình
Thứ tư: Kết quả của các lần kiểm toán trước: KTV căn cứ vào số sai phạm
phát hiện được từ những cuộc kiểm toán trước đó để xác định số lượng bằng
chứng thích hợp.
1.1.1.3. Phân loại bằng chứng kiểm toán
Căn cứ vào nguồn gốc của thông tin, tài liệu có liên quan đến hoạt động
của đơn vị và báo cáo tài chính mà kiểm toán viên thu thập được trong quá
trình kiểm toán, bằng chứng kiểm toán được chia thành:
Thứ nhất, Bằng chứng kiểm toán do kiểm toán viên tự khai thác và phát
hiện được bằng cách: kiểm kê tài sản thực tế, tính toán lại các biểu tính toán
của doanh nghiệp, quan sát hoạt động của kiểm toán viên nội bộ.
Thứ hai, Bằng chứng kiểm toán là các chứng từ, sổ sách, báo cáo và các
tài liệu khác do đối tượng kiểm toán cung cấp cho kiểm toán viên.
Thứ ba, Bằng chứng kiểm toán do bên thứ ba cung cấp từ các nguồn
khác nhau: các bằng chứng do những người bên ngoài đơn vị cung cấp trực
tiếp cho những KTV; các bằng chứng do những người bên ngoài đơn vị liên
quan đến báo cáo tài chính của đơn vị lập; các ghi chép độc lập hoặc các báo
cáo thống kê tổng hợp theo chuyên ngành có liên quan đến doanh nghiệp.
Căn cứ vào hình thức của bằng chứng, bằng chứng kiểm toán được chia
thành:
Thứ nhất, các bằng chứng vật chất là các bằng chứng mà kiểm toán viên
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
9
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
thu thập trong quá trình kiểm tra hoặc kiểm kê các tài sản hữu hình, nó bao
gồm: biên bản kê khai hàng tồn kho, biên bản kê khai quỹ tiền mặt, biên bản
kê khai tài sản cố định… Các bằng chứng vật chất có độ tin cậy cao nhất vì
được kiểm kê trực tiếp để xác minh tài sản có thực hay không.
Thứ hai, các bằng chứng tài liệu là các bằng chứng kiểm toán viên thu
thập được qua việc cung cấp tài liệu, thông tin của các bên liên quan theo yêu
cầu của kiểm toán viên bao gồm: Các chứng từ, tài liệu do các đối tượng bên
ngoài doanh nghiệp cung cấp như: các giấy xác nhận, bằng chứng của bên thứ
ba có liên quan và các tài liệu tính toán lại của kiểm toán viên về trích khấu
hao tài sản cố định, tính giá thành, phân bổ chi phí…
Thứ ba, các bằng chứng thu thập qua phỏng vấn là các bằng chứng kiểm
toán viên thu thập được thông qua xác minh, điều tra bằng cách phỏng vấn
những người có liên quan đến nội dung kiểm toán và báo cáo kiểm toán của
doanh nghiệp. Những bằng chứng này có tác dụng chứng minh cho những ý
kiến của KTV nhưng độ tin cậy không cao bằng hai loại bằng chứng trên.
Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, KTV phải thu thập thêm các
bằng chứng kiểm toán đặc biệt:
Đối với các vấn đề mà KTV không am hiểu sâu sắc, KTV có thể tham
khảo ý kiến chuyên gia về vấn đề đó. Theo Chuẩn mực Việt Nam số 18,
“Chuyên gia là các cá nhân hoặc các hãng có kỹ năng kiến thức và kinh
nghiệm về các lĩnh vực chuyên môn nào đó ngoài ngạch kế toán và kiểm
toán”. Bằng chứng này sử dụng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Khi
KTV thu thập thông tin cơ sở về đơn vị được kiểm toán thì cần phải dự kiến
nhu cầu sử dụng chuyên gia nếu thấy cần thiết và đã xem xét, cân nhắc những
yếu tố như: tính chất trọng yếu của khoản mục sẽ được kiểm tra so với toàn
bộ thông tin tài chính; nội dung và mức độ phức tạp của các khoản mục kể cả
những rủi ro và sai sót trong đó; các bằng chứng kiểm toán khách quan có
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
10
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
hiệu lực đối với các khoản mục này. Việc dự kiến sử dụng ý kiến chuyên gia
thường một số lĩnh vực như: đánh giá tài sản (đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết
bị, các công trình nghệ thuật, đá quý); Xác định số lượng hoặc chất lượng
hiện có của tài sản (trữ lượng quặng, khoáng sản, nhiên liệu trong lòng đất,
thời gian hữu ích còn lại của tài sản máy móc); hoặc trong trường hợp dùng
các phương pháp đặc biệt để xác định tổng giá trị như phương pháp ước
lượng của thống kê; xác định các phần việc sẽ hoàn thành và đã hoàn thành
trong quá trình thực hiện hợp đồng kiểm toán để xác định doanh thu; khi cần
các ý kiến của luật sư về cách diễn giải các hợp đồng và luật pháp.
Việc thu thập và sử dụng tư liệu của chuyên gia được tiến hành như:
Đánh giá kỹ năng, trình độ nghiệp vụ của chuyên gia (thể hiện qua bằng cấp
chuyên môn, giấy phép hành nghề, là thành viên của tổ chức chuyên ngành,
kinh nghiệm của chuyên gia); Đánh giá tính khách quan của chuyên gia; Xác
định công việc của chuyen gia (về mục đích, phạm vi công việc nội dung
công việc nguồn tư liệu của chuyên gia làm bằng chứng kiểm toán của KTV
có đầy đủ và thích hợp không); phạm vi đánh giá của các chuyên gia, xác định
mối quan hệ giữa chuyên gia với khách hàng, yêu cầu giữ bí mật thông tin của
khách hàng, các phương pháp mà chuyên gia sử dụng. Tuy nhiên, người chịu
trách nhiệm cuối cùng trong việc đưa ra ý kiến trong báo cáo tài chính vẫn là
KTV.
Ngoài ra, KTV phải thu thập giải trình của Giám đốc đơn vị được kiểm
toán dưới dạng văn bản, thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc lập và
trình bày báo cáo tài chính trung thực, hợp lý, phù hợp với chuẩn mực và chế
độ kế toán hiện hành và đã phê duyệt báo cáo tài chính. Trường hợp không có
đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, KTV phải thu thập các giải trình về
những vấn đề có thể ảnh hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính, nhưng nó
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
11
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
không thể thay thế bằng chứng kiểm toán do KTV thu thập được (trừ trường
hợp giải trình là bằng chứng duy nhất có thể thu thập được).
KTV cũng có thế sử dụng tư liệu của KTV nội bộ để trợ giúp cho việc thực
hiện kiểm toán báo cáo tài chính nếu xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ đáng
tin cậy. Điều này sẽ làm giảm thủ tục và chi phí kiểm toán. Tuy nhiên, KTV
vẫn phải chịu trách nhiệm toàn bộ về nội dung, lịch trình, phạm vi kiểm toán
cũng như ý kiến đưa ra về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán.
Nếu khách hàng kiểm toán đã được kiểm toán bởi công ty kiểm toán khác
trước đó, KTV mới có thể sử dụng tư liệu của KTV độc lập khác nhưng phải
chịu trách nhiệm hoàn toàn khi sử dụng.
KTV cũng có thể sử dụng bằng chứng từ các bên liên quan (là các bên có
ảnh hưởng đáng kể với bên kia trong việc ra quyết định tài chính và hoạt
động) để kết luận vấn đề. Xác nhận từ bên ngoài thường được sử dụng với các
số dư tài khoản và các bộ phận cấu thành của nó như số dư tài khoản tiền gửi,
tiền vay và những thông tin khác từ ngân hàng, kho bạc, tổ chức tài chính; số
dư các khoản phải thu; cổ phiếu gửi bên thứ ba; hàng gia công, hàng gửi bán,
nhận giữ hộ; số dư nợ phải trả; các khoản nợ vay; giấy tờ chứng nhận sở hữu
tài sản do luật sư giữ hoặc trong két sắt ngân hàng; đầu tư mua nhà từ các nhà
môi giới nhưng chưa được giao trước thời điểm lập báo cáo tài chính …
Trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán viên nên kết hợp nhiều
loại bằng chứng để có thể chứng minh cho những đánh giá, nhận xét của mình
là có căn cứ xác thực.
1.1.2. Các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC
“Kiếm toán viên thu thập bằng chứng kiểm toán bằng các phương pháp
sau: kiểm tra
2
, quan sát, điều tra, xác nhận, tính toán và quy trình phân tích.
Việc thực hiện các phương pháp này một phần tùy thuộc vào thời gian thu
2
Kiểm tra bao gồm Kiểm tra vật chất – Kiểm kê và Kiểm tra tài liệu
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
12
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
thập được bằng chứng kiểm toán” (Đoạn 20 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
số 500). Mỗi phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán sẽ cung cấp những
loại bằng chứng khác nhau với độ tin cậy khác nhau và từng phương pháp có
những ưu điểm và hạn chế riêng của mình. Do đó, KTV cần phối hợp sử dụng
những phương pháp kỹ thuật khác nhau tùy từng trường hợp cụ thể để đạt
được mục tiêu kiểm toán. Nói cách khác, tùy trường hợp cụ thể, KTV sẽ sử
dụng xét đoán nghề nghiệp để lựa chọn phương pháp thu thập bằng chứng
kiểm toán thích hợp. Bằng chứng kiểm toán thu thập được sẽ được lưu vào
giấy tờ làm việc và hồ sơ kiểm toán.
1.1.2.1 Kiểm kê vật chất
Kỹ thuật này thường được áp dụng đối với tài sản doanh nghiệp có dạng
vật chất cụ thể như hàng tồn kho, tài sản cố định hữu hình, tiền mặt, các giấy
tờ thanh toán có giá trị. KTV có thể trực tiếp tham gia kiểm kê hoặc quan sát
kiểm kê. Ưu điểm của kỹ thuật này là cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao
vì nó xác minh tính hiện hữu của tài sản một cách khách quan. Hơn nữa, cách
thực hiện cũng đơn giản. Tuy nhiên, kiểm kê chỉ cho biết kết quả về sự hiện
hữu của một số tài sản cố định như nhà xưởng, đất đai, phương tiện vận tải…
mà không cho biết quyền sở hữu hợp pháp hoặc kiểm soát lâu dài của doanh
nghiệp đối với tài sản đó, bởi lẽ chúng hiện hữu nhưng có thể là tài sản thuê
ngoài, hàng hóa nhận giữ hộ hoặc đã bị đơn vị thế chấp. Đồng thời, đối với
hàng tồn kho, kiểm kê cũng chỉ cho biết sự hiện hữu về mặt số lượng chứ
không chứng minh chất lượng, tình trạng của tài sản, giả trị của tài sản trong
khi đó chúng lại được trình bày trên BCTC dưới hình thức giá trị, do đó ảnh
hưởng trực tiếp đến số dư hàng tồn kho trên BCTC. Mặt khác, việc kiểm kê
chỉ có thể thực hiện được đối với các tài sản hữu hình mà không thể áp dụng
được đối với các tài sản vô hình, các thông tin và tài liệu khác của đơn vị, quá
trình kiểm kê thường đòi hỏi một lượng thời gian và chi phí tương đối lớn do
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
13
Luận văn cuối khoá Khoa: Kế toán
vậy có thể ảnh hưởng đến tính kinh tế và tính kịp thời của hoạt động kiểm
toán. Vì vậy, việc kiểm tra thường phải đi kèm với một số bằng chứng khác
để chứng minh quyền sở hữu, giá trị của tài sản đó và được xác định với quy
mô thực sự phù hợp, cần thiết.
1.1.2.2 Quan sát
Quan sát là việc theo dõi một hiện tượng, một chu trình hoặc một thủ tục
do người khác thực hiện, là phương pháp sử dụng để đánh giá một thực trạng
hay hoạt động của đơn vị được kiểm toán. KTV có thể quan sát tình trạng tài
sản, quan sát việc thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ do đơn vị tiến hành…
nhằm đánh giá hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được
kiểm toán. Nó mang lại cho KTV các bằng chứng về sự tồn tại, sự hữu hiệu
của các thủ tục kiểm soát mà đơn vị thiết lập trong hệ thống kiểm soát nội bộ
của đơn vị. Kỹ thuật quan sát cũng có thể được thực hiện để xác minh tính
đúng đắn của các thông tin, tài liệu và bằng chứng kiểm toán khác. Ví dụ:
KTV có thể quan sát quá trình kiểm kê của đơn vị trên co sở đó để xác nhận
kết quả kiểm kê tài sản do đơn vị thực hiện. Việc quan sát được KTV thực
hiện thông qua quan sát trực tiếp, tuy nhiên kết quả quan sát phải được ghi
chép lạo trên cơ sở giấy tờ làm việc của KTV để làm bằng chứng kiểm toán.
Kỹ thuật này cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao vì do bản thân KTV tiến
hành, đồng thời có thể áp dụng cho rất nhiều bộ phận được kiểm toán nhưng
nó chưa thể hiện tính đầy đủ vì chỉ cho bằng chứng về cách thức thực thi công
việc tại thời điểm quan sát chứ không chắc chắn sẽ được thực hiện tại các thời
điểm khác. Phương pháp này cần đi kèm với các thủ tục khác.
1.1.2.3. Điều tra
Điều tra là việc thu thập các thông tin phù hợp từ những người am hiểu
công việc ở trong và ngoài đơn vị được kiểm toán. Việc điều tra có thể tiến
hành theo cách gửi văn bản, phỏng vấn hoặc trao đổi kết quả điều tra, sẽ cung
Lê Thanh Ngân Lớp: CQ 43/22.02
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét