trong nhà lưới làm như vậy sẽ hạn chế được tác động của khí hậu thời tiết khắc nghiệt
như nhiệt độ cao, mưa bão, ngập lụt Mặt khác, ở thời kỳ 1-3 lá thật, hệ rễ yếu, khả
năng hút nước và chất dinh dưỡng kém, diện tích lá nhỏ nên quang hợp kém. Ở
thời kỳ vườn ươm, chúng ta cần chăm sóc hết sức cẩn thận, tỉ mỉ hồi phục cây trồng đạt
tiêu chuẩn cao (Tạ Thu Cúc, 2005).
1.2.2. Thời vụ gieo trồng
Rau màu là loại cây trồng rất mẫn cảm với sự thay đổi của điều kiện khí hậu thời
tiết như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, yêu cầu thời vụ rất nghiêm ngặt. Thời vụ không
thích hợp làm giảm năng suất và chất lượng (Tạ Thu Cúc, 2005).
Hơn nữa rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn, nên có yêu
cầu thời tiết khắt khe. Đảm bảo thời vụ là đảm bảo điều kiện tự nhiên tương tự như
những điều kiện của chính quê hương của loài rau màu đó để cho cây sinh trưởng và
phát triển thuận lợi nhất (Nguyễn Văn Thắng và ctv, 1999).
Nói chung, các loại rau mùa Đông có yêu cầu cường độ ánh sáng và thời gian
chiếu sáng tương đối ngắn (8-12 giờ) các loại rau mùa Hè lại yêu cầu ánh sáng có cường
độ mạnh và thời gian chiếu sáng dài (12-14 giờ/ ngày) (Nguyễn Văn Thắng và ctv,
1999)
Do đó, việc bố trí mùa vụ cũng như sắp xếp các cây trồng xen, gối cần tạo được
chế độ ánh sáng thích hợp để cây rau sinh trưởng (Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996).
Theo Trần Thị Ba và ctv, 1999 ở Đồng bằng sông Cửu Long có bốn vụ gieo trồng
chính:
- Đông Xuân gieo trồng từ tháng 10- tháng 11 dương lịch thu hoạch vào tháng 12-
tháng 1 dương lịch.
- Xuân Hè gieo trồng từ tháng 12- tháng 1 dương lịch thu hoạch vào tháng 4-tháng
5 dương lịch.
- Hè Thu gieo trồng từ tháng 4- tháng 5 dương lịch thu hoạch vào tháng 7 dương
lịch.
- Thu Đông gieo trồng từ tháng 8- tháng 9 dương lịch thu hoạch vào tháng 12-
tháng 1 dương lịch.
1.2.3. Làm đất
Bộ rễ các loài rau nói chung là ăn nông ở tầng mặt trong phạm vi 25-30 cm, do vậy
tính chịu hạn, chịu úng rất kém và lại dễ bị nhiễm sâu bệnh (Mai Thị Phương Anh và
ctv, 1996).
Mặc dù đất nào cũng có thể trồng được rau, nhưng tốt nhất là chọn những chân đất
cát pha thịt nhẹ hoặc thịt trung bình có tầng canh tác 20-30cm (Trịnh Thị Thu Hương,
2003).
Theo Trần Thị Ba và ctv (1999), đất trồng rau màu phải có lý – hóa tính tốt: Đất tơi
xốp, nhiều mùn, pH thích hợp (5,5-7), đất thịt nhẹ, thịt pha cát. Nếu là đất cát rời rạc,
giữ nước kém cần bón thêm sét, bùn ao, phơi ải kết hợp với phân hữu cơ. Nếu là đất sét
nặng khó thoát nước khó cày bừa cần bón thêm phân hữu cơ.
Tuy nhiên, tuỳ theo loại đất mà cách làm đất khác nhau; cày sâu, bừa kỹ giúp rễ
phát triển, nhưng không nên làm đất quá nhuyễn vì đất dễ bị lèn mặt sau này (Nguyễn
Bảo Vệ và ctv, 2005).
Theo Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996 thì có hai cách làm đất:
a. Làm đất vườn ươm:
Vườn ươm là nơi cây con sinh trưởng đầu tiên, nó có vai trò quan trọng quyết định
chất lượng giống do đó ảnh hưởng đến năng suất phẩm chất sau này.
Đất vườn ươm nên chọn loại đất nhẹ, tầng canh tác có thể không sâu nhưng chế độ
tưới tiêu tốt.
b. Ruộng sản xuất:
Bộ rễ loại rau nói chung là ăn nông ở tầng đất mặt trong phạm vi 25-30cm, do vậy
tính chịu hạn, chịu úng rất kém và lại hay bị nhiễm sâu bệnh, cho nên đất trồng rau nhất
thiết phải được chuẩn bị cẩn thận. Đất trồng rau cũng không đòi hỏi phải quá nhuyễn vì
nếu các kết tập đất quá nhỏ sẽ lấp hết các khoảng trống chứa khí cần thiết trong lòng
luống rau. Nói chung lớp đất trên mặt luống chỉ nên làm với kích thước 1-3 hoặc 5cm.
1.2.4. Nhu cầu nước cho rau màu
Rau là loại cây rất cần nước, đồng thời lại rất sợ úng.
Hàm lượng nước trong cây rau rất lớn, chiếm từ 75-95%, vì vậy có thể nói nước là
nguyên nhân hạn chế lớn nhất đến năng suất, chất lượng cây rau hơn bất kì yếu tố nào
khác.
Nếu thiếu nước cây rau sinh trưởng kém, thấp, còi cọc, dẫn đến năng suất và chất
lượng giảm. Nếu thừa nước cây sinh trưởng mềm yếu, nồng độ đường và các chất hòa
tan giảm. Mặt khác, nước dư thừa trong các bộ phận làm cho cây rau - màu trở nên non,
mềm dễ bị hư hỏng (Dương Hồng Dật, 2003).
Nước là thành phần cơ bản cấu tạo nên chất nguyên sinh, các quá trình trao đổi
chất trong cây như: quá trình tổng hợp và phân giải chất hữu cơ, quá trình quang hợp, sự
vận chuyển vật chất trong cây (Bùi Hiếu và ctv, 2000); là dung môi hòa tan các chất,
duy trì độ căng tế bào, làm cho cây ở trạng thái cân bằng, nước còn có tác dụng quan
trọng trong quá trình điều chỉnh sự đóng mở của khí khổng, sự giãn mở và lớn lên của lá
(Tạ Thu Cúc, 2005).
Có thể dùng công thức sau để xác định lượng nước tưới cho rau màu (Tạ Thu Cúc,
2005).
m = 100*H*A(B-R)
Trong đó:
m: lượng nước cần tưới (m
3
/ha).
H: độ sâu (m).
A: tỷ trọng đất (tấn/m
3
).
B: độ ẩm đồng ruộng (% đất khô tuyệt đối).
R: độ ẩm đất (% đất khô tuyệt đối khi tưới).
1.2.5. Nhu cầu phân bón
Rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn nhưng lại cho một
khối lượng sản phẩm (năng suất, sản lượng) rất cao, từ 20-60 tấn/ha. Do vậy cây rau
màu đòi hỏi phải được bón nhiều phân và đất trồng rau phải là đất tương đối tốt (Mai
Thị Phương Anh, 1999).
Nguyên tắc chung khi bón phân cho rau là cần bón phối hợp phân hữu cơ và vô cơ,
bón đúng liều lượng, cân đối và đúng thời kì.
Bón phân hóa học vào đất sẽ làm thay đổi tính chất lý- hóa học của đất, đặc biệt
làm thay đổi hóa tính của đất (Tạ Thu Cúc, 2005).
Tất cả các loại rau màu đều cần dinh dưỡng rất lớn, do vậy nó cần phải cung cấp
đầy đủ dinh dưỡng trong quá trình sinh trưởng, sự cung cấp này phụ thuộc vào lượng
dinh dưỡng có trong đất và nguồn phân bón bổ sung (Nguyễn Văn Hòa, 2006).
Ngoài ra, đối với loại đất nhẹ, tơi xốp thì có thể tăng cường bón đạm vô cơ, giảm
khối lượng phân hữu cơ. Đối với đất nặng, chặt thì cần tăng cường bón phân hữu cơ
giàu đạm là chủ yếu, đồng thời kết hợp với phân vô cơ để tăng hiệu quả của phân bón.
Khi xác định liều lượng phân bón cần phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế, chú ý đến
lượng NO
3
-
trong sản phẩm khi bón các dạng đạm từng chủng loại, hàm lượng N, P, K
trong sản phẩm và trong đất, chất dinh dưỡng bị giữ lại trong đất hoặc bị rửa trôi (Tạ
Thu Cúc, 2005).
Bên cạnh đó, phân chuồng là loại phân bón tương đối đầy đủ các thành phần dinh
dưỡng mà cây rau màu yêu cầu. Phân chuồng có tỷ lệ mùn cao, có tác dụng cải tạo đất,
giữ nhiệt và khí cho tầng đất mặt, loại dinh dưỡng trong phân chuồng có tác dụng từ từ
nên việc bón phân vô cơ bổ sung là biện pháp cần thiết, và phải hài hòa với lượng phân
chuồng đã bón thì mới cho năng suất cao, phẩm chất tốt, đảm bảo không có lượng
nitrate dư thừa trong cây quá nhiều ngoài ngưỡng cho phép (Mai Thị Phương Anh,
1996).
Có hai cách bón phân cho rau màu:
Bón lót: thường dùng với phân chuồng và phân vô cơ chậm tan như lân, kali và
vôi (cung cấp cho cả quá trình sinh trưởng của cây) và một phần lượng phân đạm cung
cấp cho rau màu ở giai đoạn cây con (khoảng 1/4-1/3 lượng phân đạm cần thiết).
Bón thúc: là cách bón bổ sung vào những giai đoạn cây cần dinh dưỡng nhất để
sinh trưởng, phát triển và tạo sản phẩm. Bón thúc thường dùng các loại phân dễ hòa tan,
dễ tiêu như phân chuồng ngâm ủ, phân bắc nước giải ngâm mục, phân đạm và kali.
Biện pháp bón phân ngoài rễ là biện pháp đang được sử dụng. Đó là phương
pháp bón phân lên lá - sử dụng các loại phân đã được tổng hợp, với ưu điểm là tiết kiệm
phân và hiệu quả cao. Tuy nhiên chỉ áp dụng tốt trong trường hợp đã được bón đầy đủ
phân chuồng và các phân đa lượng khác (Mai Thị Phương Anh, 1996).
Bảng 1. Lượng các nguyên tố dinh dưỡng chính và lượng cần bón cho
một tấn sản phẩm (kg/ha) (theo Mai Thị Phương Anh, 1996).
Loại rau Thời gian
sinh trưởng
Lượng cây lấy đi Lượng cần bón
N P K N P K
Cải bắp
Xà lách
cuốn
Rau bina
Cà rốt
Cà chua
Dưa chuột
120
60
60
120
150
100
100
3,5
2,2
3,6
3,2
2,6
1,7
3,0
1,3
0,8
1,8
1,3
0,4
1,4
1,2
4,3
5,0
5,2
5,0
3,6
2,6
4,0
5
2,5
4
3,2
4,5
3,5
7
5
2,5
4
3
4,5
2,5
5
6
6
7
5
5
4
5
1.2.6. Phòng trừ sâu bệnh
So với các loại cây trồng chuyên canh khác, rau màu là loại cây trồng có nhiều sâu
bệnh hơn cả. Do nó là cây ngắn ngày, lại ít có những trợ thủ tự nhiên để làm thiên địch
đối với các loại sâu bệnh hại. Mặt khác, chúng được gieo trồng suốt bốn mùa trong năm
do đó sâu bệnh dễ tồn tại, tiềm năng, ẩn náo tạo điều kiện cho sâu bệnh thích nghi
(Nguyễn Văn Thắng, 1999).
Theo Phạm Hồng Cúc và ctv (2001), cho rằng nếu áp dụng các biện pháp phòng trừ
sâu bệnh hữu hiệu thì năng suất rau màu có tăng thêm 30%.
Theo Trần Thị Ba và ctv (1999), có nhiều biện pháp phòng trừ sâu bệnh như: khử
hạt giống, cải thiện môi trường, luân canh, xen canh, sử dụng giống kháng, sử dụng
thiên địch, tạo hình và dùng thuốc hóa học.
1.2.7. Thu hoạch
Rau là loại cây trồng ngắn ngày lại có hàm lượng nước cao, sử dụng chủ yếu là sản
phẩm tươi. Do vậy thu hoạch rau màu phải đúng lứa, đúng kỳ mới đảm bảo chất lượng.
Không nên thu hoạch quá non hay quá già, nếu thu non giảm năng suất sản phẩm từ 20-
30% đối với các loại rau ăn quả chín nếu thu quá già hàm lượng chất dinh dưỡng hay
chất lượng sản phẩm giảm (Mai Thị Phương Anh và ctv, 1996).
1.3. Ảnh hưởng của việc canh tác rau màu đến môi trường
1.3.1. Ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đến môi trường
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với diện tích đất nông nghiệp trên 2 triệu ha,
hàng năm cung cấp trên hai phần ba tổng sản lượng lương thực. Do đó, để sản xuất sản
lượng lương thực lớn cho cả nước nông dân đã sử dụng một phần lớn thuốc bảo vệ thực
vật, không chỉ riêng trên cây lương thực mà tất cả các loại cây trồng tại ĐBSCL đều sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật với liều lượng cao (Nguyễn Thị Thu Cúc, 1998).
Trong thực tế, tình trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học một cách
tùy tiện, liên tục, quá liều đã gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con
người, môi trường nước, không khí, đặc biệt là môi trường đất (Hoàng Xuân Thực,
2005).
Mặt khác, việc thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng thì nó đòi hỏi một
lượng lớn phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Nếu sử dụng đúng liều và đúng cách
thì ít ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người. Thuốc bảo vệ thực vật là chế
phẩm có nguồn gốc từ hóa chất, thực vật, động vật, vi sinh vật và các chế phẩm khác
dùng để phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật. Đặc điểm của thuốc bảo vệ thực
vật là chúng đều có khả năng gây ô nhiễm cho đất và hoạt tính của chúng sẽ là chất độc
cho con người và động vật (Lê Huy Bá, 2000).
Thuốc bảo vệ thực vật gồm thuốc trừ sâu, trừ nấm, côn trùng, tuyến trùng, diệt cỏ,
kích thích , là các hợp chất hóa học hữu cơ hay vô cơ. Trong đất nó làm cho cơ lý tính
đất giảm sút, khả năng diệt khuẩn cao nên đồng thời cũng diệt nhiều vi sinh vật có ích
trong đất. Đặc biệt, trên các vùng đất có trình độ thâm canh cao thường có sâu bệnh
nhiều nên phải sử dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật. Trong quá trình sử dụng
thuốc thì lượng nước tưới hay mưa làm cho các loại thuốc này ngấm dần vào đất (Võ
Thị Gương, 2003).
Theo Raynet et al (1996) cho biết việc sử dụng nông dược một cách thường xuyên,
liên tục với liều lượng lớn đã làm giảm sự phong phú về loài và số lượng quần thể của
các loài vi sinh vật trong đất.
1.3.2. Ảnh hưởng của việc sử dụng phân hóa học đối với môi trường đất
Mặc dù có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn nhưng cây rau màu lại đòi hỏi
một lượng dinh dưỡng rất lớn. Do vậy, để tăng năng suất người ta thường bón một
lượng phân hóa học lớn chủ yếu là đạm, lân, kali. Nhưng trong đó phân đạm được dùng
với liều lượng nhiều hơn. Tuy nhiên, nó cũng chính là nguyên nhân chủ yếu gây ô
nhiễm môi trường đất, nhất là khi chúng ta không sử dụng đúng với liều lượng khuyến
cáo, dẫn đến hiện tượng đất bị chua hóa, hàm lượng các chất vôi giảm, kết cấu đất kém,
hoạt động của các vi sinh vật trong đất giảm, có sự tích động nitrat kim loại nặng một số
vùng.
Sự lạm dụng hoặc sử dụng phân bón không đúng cách dĩ nhiên có thể tạo các ảnh
hưởng bất lợi cho đất như gây mặn cho đất, kém thoát thủy và tưới thừa (Ngô Ngọc
Hưng và ctv, 2004).
Khi cung cấp đạm cây chỉ sử dụng hữu hiệu tối đa 30%, số còn lại bị rửa trôi,
phần thì nằm trong đất. Nếu cây trồng được bón phân đầy đủ sẽ tạo ra hệ thống rễ nhiều
hơn và lượng dư thừa thực vật được phân hủy sẽ góp phần cải thiện cấu trúc đất, hàm
lượng hữu cơ và khả năng giữ nước, và do dó nó cải thiện độ phì nhiêu đất. Ngược lại
lượng phân hóa học được bón vào đất không được cây trồng hút hoàn toàn. Một số
lượng dưỡng chất được giữ lại trong đất và tiếp tục cung cấp cho cây trồng vụ sau, một
số bị chảy tràn hoặc rửa trôi do mưa (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).
Khi tích lũy các hóa chất dạng phân bón cũng gây hại cho đất về mặt cơ lý tính, đất
nén chặt, độ trương co kém, kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà trở nên chai cứng, vi
sinh vật ít đi và bị hóa chất hủy diệt (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999).
1.4. Các tính chất vật lý đất trên đất trồng rau màu
1.4.1 Thành phần cơ giới
Thành phần cơ giới là tỷ lệ giữa các cấp hạt cát, thịt, sét trong đất (Henry D.Foth,
1990).
Theo Trần Kông Tấu (2005), thành phần cơ giới (còn gọi là thành phần cấp hạt)
của đất là hàm lượng phần trăm (%) của những nguyên tố cơ học có kích thước khác
nhau khi đoàn lạp đất ở trong trạng thái bị phá hủy.
Thành phần cơ giới khác nhau sẽ dẫn đến sự khác nhau về tỷ trọng, dung trọng đất,
tính kết dính, khả năng hấp phụ trao đổi ion và khả năng dự trữ dinh dưỡng trong đất
(Mai văn Quyền và ctv, 2005).
Đất có thành phần cơ giới nặng, giàu cấp hạt sét làm cho khả năng giữ nước của
đất tốt, hấp phụ được nhiều chất dinh dưỡng, có khả năng chống rửa trôi. Ngược lại, đối
với những loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, nghèo cấp hạt sét, chủ yếu là cấp hạt thô,
khả năng giữ nước, hấp thu những chất dinh dưỡng kém, độ thấm cao, các chất dinh
dưỡng dễ bị rửa trôi có thể nói thành phần cơ giới là một trong những yếu tố quyết
định độ phì nhiêu của đất (Trần Kông Tấu, 2005).
Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong cấp hạt nhỏ nhiều nên đất sét tốt hơn đất cát.
Ở đất có tỉ lệ hạt nhỏ, về cơ bản là giàu dinh dưỡng là do khả năng giữ dinh dưỡng của
nó tốt hơn đất có tỉ lệ cát cao. Tuy nhiên, nếu đất sét không được bổ sung dinh dưỡng và
không có biện pháp bảo vệ thì vẫn bị thoái hóa (Trần Trọng Nghĩa, 2004).
Về tính chất vật lý nước và cơ lý đất cho thấy khi kích thước hạt giảm đã làm
giảm tốc độ thấm nước, tăng tính mao dẫn, tăng tính trương co, tăng lượng hút ẩm lớn
nhất và tăng sức dính cực đại. Thành phần và tính chất hóa lý của các cấp hạt khác nhau
thì khác nhau đã dẫn đến sự thay đổi quan trọng về tính chất trong đất khi có các tỉ lệ
cấp hạt khác nhau (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
Theo Lê Văn Khoa (2004), thì sự suy thoái về cấu trúc thường xảy ra ở các vùng có
vũ lượng cao, thường hay ngập lũ, bơm tưới nhiều trong canh tác, đất dễ bị gley giả và
hệ thống thoát nước kém.
Đối với đất có tỷ lệ sét cao, hàm lượng chất hữu cơ thấp và thời gian canh tác càng
lâu thì tình trạng nén dẽ của đất dễ dàng xảy ra (Võ Thị Gương, 2004).
1.4.2. Phân loại đất theo thành phần cơ giới
Việc phân loại đất theo thành phần cơ giới có ý nghĩa rất quan trọng nhất là việc
ứng dụng trong sản xuất. Nông dân khi canh tác trên đất đã biết phân ra: cát, cát pha
thịt, đất sét,…vì mỗi loại như vậy lại thích hợp cho mỗi loại cây trồng nhất định.
Trên thế giới có rất nhiều bảng phân loại đất theo thành phần cơ giới nhưng có các
dạng phân loại: theo Mỹ, Liên Xô (cũ), và quốc tế (Nguyễn Thế Đặng và ctv, 1999).
Bảng 2. Phân loại đất theo thành phần cơ giới của Liên Xô (cũ)
(Theo N.A.Kasinsky)
Tên gọi % Sét vật lý % Cát vật lý
Đất
potzon
Đất đỏ
vàng thảo
nguyên
Đất mặn Đất
potzon
Đất đỏ
vàng thảo
nguyên
Đất mặn
Đất cát rời
Đất cát dính
Đất cát pha
0-5
5-10
10-20
0-5
5-10
10-20
0-5
5-10
10-25
100-95
95-90
90-80
100-95
95-90
90-80
100-95
95-90
90-85
Đất thịt nhẹ
Đất thịt trung bình
Đất thịt nặng
20-30
30-40
40-50
20-30
30-45
45-60
15-20
20-30
30-40
80-70
70-60
60-50
80-70
70-55
55-40
85-80
80-70
70-60
Đất sét nhẹ
Đất sét trung bình
Đất sét nặng
50-65
65-80
>80
60-75
75-85
>85
40-50
50-65
>65
50-35
35-20
<20
40-25
25-15
<15
60-50
50-35
<35
Hình 1. Tam giác sa cấu theo USDA/ Soil Taxonomy (Mỹ)
Bảng 3. Bảng phân loại đất theo thành phần cơ giới của quốc tế (Nguyễn Thế Đặng
và ctv, 1999).
Loại đất % Trọng lượng
Cát
2-0.02mm
Bụi
0.02-0.002mm
Sét
0.002-0.0002mm
Cát 1.Đất cát 85-100 0-5 0-15
Thịt 1. Đất cát pha
2. Đất thị pha cát
3. Đất thịt nhẹ
55-85
40-54
0-55
0-45
30-45
45-100
0-15
0-15
0-15
Thịt nặng 5.Đất thịt trung bình
6.Đất thịt nặng
7.Đất sét nặng
55-85
30-55
0-40
0-30
20-45
45-75
15-25
15-25
15-25
Sét 8.Đất sét pha cát
9.Đất sét pha thịt
10.Đất sét trung bình
11.Đất sét
12.Đất sét nặng
55-75
0-30
10-55
0-55
0-35
0-20
45-75
0-45
0-55
0-35
25-45
25-45
25-45
45-65
65-100
1.4.3.Tính chất các loại đất có thành phần cơ giới khác nhau
Thành phần cơ giới đất ảnh hưởng lớn đến tính chất đất và cây trồng. Khi tỷ lệ các
cấp hạt có kích thước khác nhau, ở mỗi loại đất, mỗi tầng đất khác nhau, sẽ tác động
trực tiếp đến tính chất đất là khác nhau và từ đó ảnh hưởng đến cây trồng.
Đất cát:
Hình 2. Sự sắp xếp các hạt cát
Cấp
hạt gọi
Tên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét