TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
I.2.2 Các đơn vị hành chính
- Huyện ly: thị trấn Vĩnh An
- Các xã: Bình Hòa, Bình Lợi, Tân Bình, Thạnh Phú, Thiện Tân, Tân An, Trị An,
Hiếu Liêm, Vĩnh Tân, Mã Đà, Phú Lý
I.2.3 Kinh tế, xã hội
- Huyện có diện tích đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao 65.921 ha có trữ lượng gỗ lớn.
- Có Hồ Trị An 28.500 ha (trong địa phận Vĩnh Cửu là 16.500 ha) là nguồn nước
phong phú phục vụ cho tưới tiêu nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
- Có tiềm năng khoáng sản phong phú về chủng loại gồm kim loại quý, nguyên
liệu vật liệu xây dựng: cát, đá, keramzit cho sản xuất bê tông nhẹ, puzlan và
laterit nguyên liệu phụ gia cho xi măng.
- Có các cảnh quan nổi tiếng như: Hồ Trị An, khu di tích lịch sử chiến khu Đ, các
khu vườn ăn trái ven sông Đồng Nai thuận lợi cho du lịch sinh thái - tham quan
nghiên cứu.
- Đã quy hoạch Khu công nghiệp Thạnh Phú. Đang quy hoạch cụm sản xuất ngành
nghề tại xã Tân Bình.
II. Hiện trạng khai thác và quản lý
II.1 Hiện trạng khai thác
II.1.1 Khai thác sử dụng thủy điện
II.1.1.1 Nhà máy thủy điện Trị An
NHÓM 3_DH08QM Trang 5
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
Hình 1: Nhà máy thủy điện Trị An
Nhà máy thủy điện Trị An được xây dựng trên sông Đồng Nai, đoạn chảy qua
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, cách Thành phố Hồ Chí Minh 65 km về phía Đông
Bắc.Nhà máy được xây dựng với sự hỗ trợ về tài chính và công nghệ của Liên Xô từ
năm 1984, khánh thành và đưa vào sử dụng từ năm 1991.Công trình thủy điện Trị An
được khởi công ngày 22-2-1982. Đập hồ Trị An được xây dựng bằng đá hỗn hợp, có
chiều dài 420m, chiều cao 40m, đỉnh đập rộng 10m. Phần đập tràn chịu lực bằng bê tông
dài 150m, có 8 khoang tràn với mỗi khoang rộng 15m và 8 cửa van. Bên cạnh đó có đập
Suối Rộp dài 2.750m, cao 45m và hệ thống đập đất phụ có chiều dài tổng cộng 6.263m.
Nhà máy thủy điện Trị An có 4 tổ máy, với tổng công suất thiết kế 400 MW, sản lượng
điện trung bình hàng năm 1,7 tỉ KWh. Hồ thủy điện Trị An là hồ chứa điều tiết hằng
năm, mục đích để phát điện với mực nước dâng bình thường (HBT) 62 m, mực nước
chết (HC) 50 m, mực nước gia cường 63, 9 m. Lưu lượng chạy máy ở công suất định
mức là 880 m3/s, tương ứng 220m3/s cho mỗi tổ máy, cột nước tinh là 53m. Nhà máy
thủy điện được xây với tổng công suất lắp máy 4 tổ x 100 MW = 400 MW, sản lượng
điện hằng năm 1,76 tỉ kW.h. Lưu lượng nước xả lũ qua đập tràn cao nhất theo thiết kế là
NHÓM 3_DH08QM Trang 6
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
18.450 m3/s. Tuyến áp lực chính gồm đập ngăn sông và đập tràn. Đập ngăn sông được
đắp bằng đất đá hỗn hợp, dài 420m, cao 40m, đỉnh đập rộng 10m. Đập tràn xả lũ dài
150m, có 8 khoang tràn, mỗi khoang rộng 15m với 8 cửa van cung được đóng mở bằng
cẩu chân dê 2x125 tấn. Đập chính và các đập phụ tạo nên hồ chứa nước rộng 323 km2
với dung tích tổng cộng 2,76 tỉ m3, dung tích hữu ích là 2,54 tỉ m3, dung tích chết
0,218.109 m3. Công trình thủy điện Trị An còn có ý nghĩa kinh tế tổng hợp với mục đích
chính hòa lưới điện quốc gia cùng với các nhà máy khác cung cấp điện cho phụ tải tòan
quốc. Ngoài ra, là thủy điện đa mục tiêu, công trình còn đảm bảo nước cho sinh hoạt,
nông nghiệp, đẩy mặn và điều tiết lũ
Hình 2: Đập tràn Nhà máy thủy điện Trị An
II.1.1.2 Hiện trạng “nước ít, điện cầm chừng” :
NHÓM 3_DH08QM Trang 7
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
Hàng năm cứ vào giữa tháng 9 là đỉnh lũ của hồ Trị An (Đồng Nai), nước về đầy
hồ, buộc phải xả tràn. Thế nhưng, năm đã đến cuối tháng 9/2010 hồ vẫn cạn trơ đáy,
khiến việc khai thác thủy gặp rất nhiều khó khăn.
Hồ Trị An là một trong những công trình thủy điện quan trọng của cả nước, lấy
nước từ 2 nhánh sông Đồng Nai chảy qua huyện Vĩnh Cửu và La Ngà đổ về với lượng
nước trữ khoảng 15 tỷ m3/năm. Năm 2010, mưa ít, lượng nước về hồ không nhiều đã
ảnh hưởng rất lớn việc cung cấp điện cho khu vực phía Nam cũng như lưới điện quốc
gia. Trung bình mỗi năm, thủy điện Trị An cung cấp khoảng 1.730 triệu kWh cho lưới
điện quốc gia và vào cao điểm của mùa mưa các tháng 8, 9 và 10 cung cấp khoảng 10
triệu kWh/ngày. Năm 2010, mưa đầu nguồn ít, lượng nước về hồ hiện chỉ đạt trên 50 m,
vượt mực nước chết trên 0,5 m, ít hơn mọi năm hơn 10m nên thủy điện Trị An chỉ chạy
được 4 - 5 triệu kWh/ngày. Đây là trường hợp chưa từng xảy ra trong nhiều năm nay.
Mọi năm vào cuối tháng 8 mực nước ở hồ đạt khoảng 60 m, đỉnh điểm lũ ở hồ
Trị An vào giữa tháng 9 mực nước đạt 61 - 62 m và phải xả tràn về hạ lưu. Tuy nhiên
giữa tháng 9/2010 đã không xảy ra lũ và nước về hồ thấp hơn mọi năm hơn 11 m, hiện
mặt hồ vẫn cạn trơ đáy. Do đó, nhà máy vận hành chỉ chạy được nửa công suất so với
năm 2009, lượng điện cung cấp cho lưới điện quốc gia bị giảm mạnh. Dự báo mùa khô
2010-2011 lượng điện phát sẽ rất hạn chế, tình trạng thiếu điện khó tránh khỏi.
II.1.2 Khai thác sử dụng thủy sản
II.1.2.1 Hiện trạng khai thác
Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch hệ thống
khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020, hồ Trị An ngoài việc tạo thủy điện, cung
cấp điện sử dụng trong vùng, còn có chức năng nuôi trồng, khai thác thủy sản, góp phần
tăng trưởng kinh tế - xã hội trên địa bàn. Thực hiện chương trình đổi mới phương thức
quản lý hồ Trị An, từ qúy IV/ 2009, UBND tỉnh đã quyết định giao cho Khu bảo tồn
thiên nhiên và di tích Vĩnh Cửu quản lý, đầu tư nuôi trồng, khai thác thủy sản hồ Trị An.
NHÓM 3_DH08QM Trang 8
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
Hiện khu vực lòng hồ Trị An có khoảng 800 ghe, 700 bè nuôi cá với hơn 5.000
lao động nuôi trồng, đánh bắt, làm các dịch vụ thuỷ sản.
II.1.2.2 Khai thác bừa bãi và những hệ lụy
Do cuộc sống còn nhiều khó khăn, không có vốn để đầu tư phương tiện đánh bắt,
khai thác nguồn lợi thủy sản nên nhiều người đã chọn cách đánh bắt tôm, cá theo kiểu
hủy diệt. Bất cứ nơi nào có sông rạch, ao hồ thì có người tìm đến khai thác. Họ dùng bất
cứ phương tiện đã bị nghiêm cấm như lưới mắt nhỏ, xung điện, thuốc độc, thuốc nổ…
để đánh bắt cá, tôm. Những năm trước đây, người đánh bắt cá tôm không ngại ngần
dùng thuốc nổ ném xuống sông suối, ao hồ để tận thu nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên, do
sử dụng thuốc nổ gặp nhiều rủi ro, nguy hiểm lại dễ bị cơ quan chức năng truy bắt ráo
riết nên gần đây nhiều người đã chuyển sang cách đánh bắt bằng hình thức dùng xung
điện hoặc hòa thuốc độc đổ vào nguồn nước để tận thu tôm, cá.
Hình 3: Đánh bắt cá bằng xung điện trên sông Đồng Nai
đoạn chạy qua Trị An, Mã Đà (huyện Vĩnh Cửu).
Việc sử dụng xung điện để đánh bắt thủy sản đã cùng lúc vừa tàn sát hàng loạt
tôm, cá trong vùng có tác động của dòng điện, vừa tàn sát môi trường thủy sinh, hủy
NHÓM 3_DH08QM Trang 9
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
hoại thức ăn của các loại khác cùng sống dưới nước. Hiện nhiều loài cá, tôm đã phải
mang dị tật không thể sinh sản và phát triển được nữa.
II.1.2.3 Thiếu nước, khai thác thủy hải sản điêu đứng
Lượng nước về hồ quá ít không chỉ thủy điện Trị An gặp khó khăn mà hàng ngàn
hộ dân sống bằng nghề nuôi trồng, đánh bắt thủy sản trên hồ cũng điêu đứng. Nhiều ngư
dân đánh bắt thủy sản trên hồ Trị An ở khu phố 1, thị trấn Vĩnh An (huyện Vĩnh Cửu -
Đồng Nai) đã phải bỏ nghề vì nước trên hồ cạn nên cá không sinh sôi nảy nở được, dẫn
đến lượng cá đánh bắt hàng đêm chỉ bằng gần một nửa so với trước đây. Lượng cá đánh
được bán không đủ cho chi phí đánh bắt của ngư dân.
Theo các hộ nuôi trồng thủy sản trên hồ Trị An và sông La Ngà, hiện nay nước
trên hồ Trị An đang dần cạn vì vậy công việc đánh bắt thủy san đang gặp rất nhiều khó
khăn
Trong tháng 9 năm 2010 khu bảo tồn chuẩn bị 1 triệu con cá giống để thả vào hồ
Trị An, tuy nhiên cuối tháng 9 hồ vẫn cạn kiệt như mùa khô nên không thể tiến hành thả
cá. Nếu trong tháng 10 hồ Trị An vẫn cạn không thả được cá giống thì năm sau hồ Trị
An sẽ không còn cá. Vì mùa mưa là lúc nước về đầy hồ, cá từ các sông đổ về sinh sản và
Khu bảo tồn thả thêm hàng triệu con cá giống các loại bổ sung thêm lượng cá trên hồ.
II.1.2.4 Hoạt động thả cá giống phục hồi nguồn lợi thuỷ sản và môi trường hồ Trị An
Khu bảo tồn thiên nhiên và di tích Vĩnh Cửu đã làm lễ thả 1 triệu cá giống các
loại vào hồ Trị An tại bến cảng Trung tâm thủy sản thuộc thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh
Cửu, 4 loại cá giống được thả gồm: cá chép, cá mè, cá trôi và cá trắm với tổng trị giá
khoảng 300 triệu đồng từ nguồn đóng góp của ngư dân đang nuôi trồng và đánh bắt thuỷ
sản trong khu vực lòng hồ Trị An. Nguồn kinh phí chủ yếu được huy động từ các hộ ngư
dân sinh sống quanh khu vực hồ Trị An.
NHÓM 3_DH08QM Trang 10
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
II.1.3 Khai thác sử dụng cát
Cát là một trong những loại khoáng sản dễ khai thác, có nhu cầu sử dụng lớn và
giá trị khá cao. Chủ yếu là dùng trong xây dựng…Vì vậy, nhiều người đã tìm mọi cách
để có được giấy phép hoặc khai thác lậu.
Có thể nói, khai thác cát hiện nay đang là một nghề hái ra tiền đối với các chủ
phương tiện, chủ bến bãi vì đây chính là của "trời cho" cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Nguồn lợi từ hoạt động này không nhỏ và về mặt kinh tế cũng như về mặt xã hội (tạo
công ăn việc làm cho các lao động dôi dư), thế nhưng tác hại do khai thác bừa bãi mới là
điều đáng bàn ở đây.
Dọc tuyến sông Đồng Nai qua khu vực huyện Vĩnh cửu, từ xã Trị An kéo xuống
tận xã Bình Hòa, cả 2 bên tả hữu sông Đồng Nai có tới hàng chục bãi cát và điểm khai
thác cát.
Hình 4: Xà lang chở cát
Từ bao đời nay, hàng trăm hộ dân ở huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai có đất tiếp
giáp thượng nguồn sông Đồng Nai vốn chung sống bình yên với sông. Ba năm trở lại
NHÓM 3_DH08QM Trang 11
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
đây, nạn khai thác cát trái phép diễn ra rầm rộ với qui mô lớn đã làm cho dòng sông
rỗng ruột. Cứ thế sông Đồng Nai “nuốt chửng” hàng ngàn mét vuông đất của người dân.
“Sa tặc” lộng hành, khai thác cát trái phép rầm rộ đã làm cho lòng sông Đồng Nai
ngày càng thêm rỗng ruột. Hậu quả là hàng trăm ngàn hecta đất của người dân đang từng
ngày rơi tỏm xuống sông. Nhiều người dân rơi vào tình trạng sổ đỏ còn nhưng đất hết.
Trừ những bến bãi được cấp phép là chấp hành tương đối tốt, số còn lại thì mạnh
ai người đó làm, bất chấp các quy định pháp luật về bảo vệ hành lang an toàn cầu, an
toàn đê, bảo vệ môi trường, đặc biệt là vi phạm quy định an toàn luồng lạch chạy tàu
thuyền theo quy định của Luật Giao thông đường thủy nội địa.
Hàng ngày, có hàng chục phương tiện nối đuôi nhau chờ vào bến bốc cát lên, còn
dưới sông là các loại tàu hút dùng vòi rồng (ống hút) hút cát lên bãi. Nguy hiểm nhất là
loại tàu hút này, chúng có thể xỉa vào thân đê, chân cầu, luồng tàu chạy để hút cát.
Chỉ tính riêng về vấn đề an toàn luồng chạy tàu, kiểu hút này sẽ tạo ra những
vụng xoáy ngầm rất lớn làm biến đổi dòng chảy và luồng giao thông đường thủy. Tàu
thuyền đi qua rất dễ bị mắc vào bãi cạn, hoặc cồn ngầm do xoáy nước tạo nên.
Trong thực tế, hoạt động khai thác diễn ra không chỉ ở các bãi đã khoanh
định. Các xáng cạp cát thường xuyên di chuyển và khai thác trên khắp đoạn
sông. Việc đánh giá khối lượng khai thác thực tế là việc làm không đơn giản bởi
có nhiều doanh nghiệp cùng khai thác trên một đoạn sông, tài nguyên lấy khỏi lòng
sông đôi khi được chuyển sang ngay cho các cơ sở kinh doanh trung gian. Ngay trong
một công ty, việc quản lý sản lượng khai thác của từng xáng cạp cũng là vấn đề…
Công nghệ khai thác cát của các chủ xà lan trên sông Đồng Nai chạy qua huyện
Vĩnh Cửu:
- Sử dụng xà lan có đặt máy bơm hút cát chạy dọc theo dòng sông để bơm hút cát
lên xà lan, sau đó chở về bến tập kết cát.
- Sử dụng nước sông để hút cát từ xà lan lên bãi bằng máy bơm hút cát và ống dẫn.
NHÓM 3_DH08QM Trang 12
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
- Xúc cát lên phương tiện vận chuyển bằng máy xúc kết hợp xúc cát thủ công.
- Vận chuyển bằng ô tô tự đỗ.
II.1.4 Khai thác sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp
Hình 5 : Sử dụng nước sông tưới tiêu cho nông nghiệp
Tại huyện Vĩnh Cửu những hộ dân sống xung quang dòng sông Đồng Nai , dọc
theo dòng sông, họ dùng nước sông để tưới tiêu cho cây trồng của mình, đăc biệt nơi đây
có vườn bưởi Tân Triều với diện tích lớn 235ha.
Hiện nay đang xây dựng các kênh dẫn nước từ sông Đồng Nai vào khu vườn bưởi
Tân Triều để phục vụ cho việc tưới tiêu của bà con dễ dàng hơn,
Ngoài ra người dân còn dung nước từ Sông Đông Nai để tưới cho các vùng hoa
màu của mình như các vườn rau, vườn bầu, bí, mướp,dưa… và cỏ chăn nuôi bò nữa.
Hiện nay tình trạng sử dụng nước của người dân nơi đây chưa thực sự tốt, việc
lãng phí nước đang là mối lo ngại, không những lãng phí nguồn nước mà còn về chi phí ,
công sức nữa.
NHÓM 3_DH08QM Trang 13
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
II.1.5 Khai thác sử dụng cho công nghiệp
Hiện nay trên lưu vực sông Đồng Nai đoạn chảy qua huyện Vĩnh Cửu vẫn chưa
khai thác tài nguyên nước phục vụ để cho ngành công nghiệp mà chỉ phục vụ cho việc
cấp nước sinh hoạt.Huyện Vĩnh Cửu có 1 khu công nghiệp và 8 cụm công nghiệp với
diện tích được tỉnh phê duyệt là 582,2 hécta nhưng hầu hết các công ty đều sử dụng
nguồn nước ngầm để phục vụ cho sán xuất.
II.1.6 Khai thác sử dụng cho sinh hoạt
Theo quan trắc chất lượng nước của Sở TN&MT tỉnh Đồng Nai thì nước sông
Đồng Nai có chất lượng nước đạt yêu cầu cấp nước sinh hoạt nhưng qua xử lí.Tình hình
khai thác nước để phục vụ cho sinh hoạt ngày càng tăng.Trên lưu vực sông Đồng Nai
đoạn chảy qua huyện Vĩnh Cửu thì tỉnh Đồng Nai đã xây dựng nhà máy cấp nước sinh
hoạt ở xã thiện tân, huyện Vĩnh Cửu. Nhà máy nước Thiện Tân được xây dưng vào năm
2000 với công suất 100.000 m
3
/ngày đêm do UBND tỉnh Đồng Nai làm chủ đầu tư.Hiện
nay nhà máy nước Thiện Tân do công ty một thành viên xây dựng cấp nước Đồng Nai
quản lý, nhà máy cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư TP.Biên Hòa, trung tâm thị trấn
Long Thành và các khu công nghiệp Biên Hòa 1, Biên Hòa 2, Loteco, Tam Phước, Long
Thành. Mặc dù nhà máy nước Thiện Tân công suất 100.000 m3/ ngày đêm, phục vụ cho
cư dân và các khu công nghiệp ở thành phố Biên Hoà (Đồng Nai) đã đi vào hoạt động
nhưng hiện vẫn còn hàng nghìn hộ dân ở các phường Tân Phong, Tân Biên, Tân Hoà (tp
Biên Hòa) vẫn chưa có nước sạch sử dụng. Hiện tại công ty Sonadezi đang đầu tư nâng
công suất nhà máy nước Thiện Tân giai đoạn 2 lên 200.000 m
3
/ngày đêm dự kiến hoàn
thành vào năm 2015 để đáp ứng được nhu cầu cấp nước sinh hoạt cho các khu dân cư
nói trên. Ngoài ra thì công ty xây dựng cấp nước tỉnh Đồng Nai cũng đang đầu tư xây
dựng lại xí nghiệp nước Vĩnh An, thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu.Xí nghiệp nước
Vĩnh An hoàn thành sẽ cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư thị trấn Vĩnh An và các xã
như Mã Đà, Hiếu Liêm, Phú Lý…thuộc huyện Vĩnh Cửu.
NHÓM 3_DH08QM Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét