II/Thực trạng ngành du lịch Ninh Bình
1.Đánh giá chung về cơ sở phát triển ngành du lịch
1.1 Cơ sở hạ tầng
Kiến trúc
Công tác quy hoạch: đã lập xong quy hoạch tổng thể cho 2 thị xã, 6 thị
trấn huyện lỵ trong tỉnh và lập trình duyệt 12 dự án quy hoạch chi tiết. Đã và
đang tiến hành lập quy hoạch cho 127 xã và trung tâm cụm dân cư trong
tỉnh. Đã thẩm định trên 1.700 lượt công trình và hạng mục công trình với
tổng dự toán trên 900 tỷ đồng. Tham gia cùng các ngành trong tỉnh xây dựng
giá và quản lý các chính sách về đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh
ngày càng có hiệu quả hơn
Xây dựng cơ bản
Những năm gần đây đã khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải mà
tập trung cho các công trình trọng điểm để khai thác tiềm năng thế mạnh của
tỉnh như: Nhà máy xi măng Tam Điệp, dây chuyền chế biến dứa Đồng Giao,
Nhà máy cán thép Tam Điệp. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn như: kênh 12B, hồ Yên Thắng, đường chống lũ
quét, cơ sở hạ tầng nuôi tôm Kim Sơn, các cơ sở hạ tầng giao thông và thoát
nước đô thị cũng được chú trọng như: đường 59A, WB2, nhà máy nước, hệ
thống thoát nước tây bắc thị xã Ninh Bình, dự án tây sông Vân; các công
trình phục vụ cho SeaGames 22 như: nhà thi đấu TDTT, sân vận động
Nhiều công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng phát huy được hiệu qủa
đầu tư, góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội của tỉnh phát triển.
Giao thông vận tải
Tỉnh Ninh Bình nằm ở cực nam đồng bằng Bắc bộ có hệ thống giao
thông thuận tiện cả đường bộ, đường thuỷ và đường sắt. Đường bộ có quốc
lộ 1A, số 10, 12A, 12B, 12C và quốc lộ 59A với tổng chiều dài là 120 km,
đường tỉnh lộ với 24 tuyến là 308 km; đường sông có tổng chiều dài là 387,3
km trong đó đường sông trung ương (sông Đáy, sông Hoàng Long, sông
Vạc ) là 165,5 km, đường sông địa phương là 221,8 km, có cảng Ninh Bình
tàu từ 100- 400 tấn có thể ra vào thuận lợi, năng lực bốc xếp 1,4 triệu
tấn/năm; đường sắt có chiều dài 20 km với 4 ga (Ninh Bình, Cầu Yên,
Ghềnh, Đồng Giao). Đường bộ, đường sắt chiếm vị trí rất quan trọng trong
toàn bộ hệ thống giao thông vận chuyển hàng hoá, giao lưu kinh tế với các
vùng, miền trong cả nước
5
Những năm gần đây ngành giao thông đã tranh thủ sự hỗ trợ của Bộ
GTVT, các dự án Quốc tế, các ngành và các cấp để tăng cường đầu tư cho
cơ sở hạ tầng giao thông: đường quốc lộ rải nhựa 39,5 km (trong đó có 6,8
km đường bê tông nhựa); xây dựng 7 cầu (190,9m); 01 đập tràn 120 m;
đường tỉnh: rải nhựa 84,7 km; các công trình được đầu tư đảm bảo chất
lượng, kỹ, mỹ thuật đạt hiệu quả và phát huy tác dụng tốt.
Về vận tải: Kết quả vận tải từ năm 1992- 2001 đạt 28.873.000 tấn hàng hoá,
luân chuyển 657,8 triệu tấn; vận tải hành khách đạt 15.412.000 người; doanh
thu vận tải đạt 596.767 triệu đồng. Ngành đã điều tiết và duy trì hoạt động
thường xuyên 53 tuyến vận tải hành khách nội tỉnh, ngoại tỉnh đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội.
1.2 Các điểm hấp dẫn
1.2.1Các điểm hấp dẫn về thắng cảnh
Khu du lịch sinh thái Tràng An
Năm 2007 các nhà khảo cổ học đầu ngành
của nước Anh và các nhà khoa học Việt Nam đã
có những chuyến khảo sát Hang Báng - một trong
những hang động thuộc khu du lịch sinh thái
Tràng An. Các nhà khoa học đã phát hiện những
công cụ chặt bằng đá cuội thuộc thời kỳ văn hoá
Sơn Vi, những mảnh gốm thuộc thời kỳ văn hoá
Đa Mút
Trước đó, trong quá trình nạo vét các thung, các hang động, rất nhiều
các cổ vật từ có niên đại từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV cũng được tìm
thấy. Đây là những tư liệu quý để các nhà khoa học tìm hiểu về thời đại đồ
đá cũ, về đời sống của người nguyên thuỷ, tìm hiểu về các triều đại Đinh,
Lê, Lý, Trần. Những phát hiện mới này sẽ là tiền đề quan trọng để tỉnh Ninh
Bình có hướng khoanh vùng bảo vệ, quy hoạch và đầu tư lớn vào khu du
lịch sinh thái Tràng An
Bên cạnh giá trị lịch sử khảo cổ học, Tràng An còn được biết đến như
là một khu sinh thái độc đáo với hơn 30 thung lớn nhỏ và gần 50 hang động
thung ao, kéo dài 20 km.
Phủ Khống - Khu du
lịch sinh thái Tràng An
6
Cùng với khu hang động, khu du lịch Văn hóa tâm linh núi chùa Bái
Đính được xác định là điểm nhấn quan trọng trong khu du lịch sinh thái
Tràng An. Tại đây đã xây dựng những ngôi chùa lớn. Trong chùa đặt một
pho tượng Phật bằng đồng cao 10m, nặng 100 tấn đã được trung tâm sách kỷ
lục Việt Nam xác lập là pho tượng phật bằng đồng cao và nặng nhất Việt
Nam; 3 pho tượng Tam thế bằng đồng, mỗi pho nặng 50 tấn; 2 quả chuông
đồng, một quả nặng 27 tấn, một quả nặng 36 tấn; Đặc biệt khu núi chùa Bái
Đính còn có tượng các vị La Hán bằng đá nguyên khối với số lượng lớn nhất
khu vực Đông Nam Á.
Dự kiến đến đầu năm 2008, nhân kỷ niệm 1040 năm Vua Đinh Tiên
Hoàng lên ngôi hoàng đế - đó cũng là thời điểm diễn ra tuần lễ du lịch Ninh
Bình. Khu du lịch sinh thái Tràng An được đưa vào khai thác sẽ tạo lên bản
sắc riêng và sức bật mới cho du lịch Ninh Bình, góp phần đưa Ninh Bình trở
thành địa bàn quan trọng trong không gian du lịch Bắc Bộ.
Nhà thờ đá Phát Diệm - Tỉnh Ninh Bình
Nhà thờ Phát Diệm ở cách Hà Nội 130
km về phía Nam, được xây dựng vào
những năm 1875 - 1899. Ðây là một quần
thể kiến trúc phương Ðông gồm có (từ
hướng Nam đi vào): Ao hồ, Phương Ðình,
Nhà thờ lớn với bốn Nhà thờ cạnh ở hai
bên, ba hang đá nhân tạo, Nhà thờ đá.
Ao hồ hình chữ nhật, ở giữa là một hòn đảo nhỏ, trên có đài chúa Giê
su làm vua.
Phương Ðình là một kiến trúc đồ sộ bằng đá (chiều ngang 24m, chiều
sâu 17m, chiều cao 25m), trên vách phía ngoài và phía trong có những bức
phù điêu bằng đá. Bên trong phía trên có treo một chiếc trống cái và một quả
chuông (đúc năm 1890, cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần hai tấn).
Nhà thờ lớn dài 74 mét, rộng 21m, xây năm 1891, có bốn mái và sáu hàng
cột gỗ lim. Hai hàng giữa là 16 cột gỗ lim (cao 11m, chu vi 2,35m). Bàn thờ
chính là một phiến đá dài 3 mét, rộng 0,9 mét, cao 0,8 mét, trên ba mặt có
chạm khắc hoa lá.
Hai bên nhà thờ lớn có bốn Nhà thờ nhỏ hơn, mỗi nhà thờ một kiểu. ở tận
cuối phía Bắc là 3 cái hang đá, đẹp nhất là hang đá Lộ Ðức ở phía Ðông
Nhà thờ đá Phát Diệm
7
Bắc. Sau cùng ở góc phía Tây Bắc là Nhà thờ nhỏ, còn gọi là Nhà thờ đá vì
tất cả cột, xà, tường, chắn song, tháp đều bằng đá.
Nhà thờ Phát Diệm là một điểm hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
8
Cố đô Hoa Lư - Tỉnh Ninh Bình
Hoa Lư là kinh đô của nước Ðại Cồ Việt
(tên xa xưa của nước Việt Nam) có cách đây gần
10 thế kỷ thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư,
Cố đô Hoa Lư trước đây rộng khoảng 300 ha được bao quanh bởi hàng
loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ. Khoảng trống giữa các sườn núi
được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ 8-10
mét. Kinh đô Hoa Lư bao gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam.
Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa phận thôn Yên Thành xã Trường
Yên. Ðây là cung điện chính mà khu vực đền Ðinh, đền Lê là Trung tâm và
cũng chính là nơi vua Ðinh Tiên Hoàng cắm cờ nước. Trước cung điện có
núi Mã Yên tương truyền vua Ðinh lấy núi làm án.
Thành Nội thuộc thôn Chi Phong, xã Trường Yên có tên là Thư Nhi xã,
nơi nuôi trẻ em và những người giúp việc trong cung đình.
Thành Nam (thành ở phía Nam, từ hang luồn trở vào trong, nằm đối diện và
nối liền với khu Thành Ngoại). ở đây xung quanh có núi cao bao bọc, án ngữ
phía Nam kinh thành, bảo vệ mặt sau, từ đây bằng đường thuỷ có thể nhanh
chóng rút ra ngoài.
Phía Ðông kinh thành có núi Cột cờ, nơi có lá quốc kỳ Ðại Cồ Việt, có
ghềnh tháp-nơi vua Ðinh duyệt thuỷ quân, hang Tiền nơi lưu giữ tài sản
quốc gia, động Thiên Tôn- tiền đồn của Hoa Lư và là hang nhốt hổ, báo để
xử kẻ có tội.
Ðến đời Lê Hoàn đã cho xây thêm nhiều cung điện lộng lẫy: điện Bách
Thảo Thiên Tuế, điện Phong Lưu ở phía Ðông, điện Vinh Hoa ở phía Tây,
điện Bồng Lai bên tả, điện Cực Lạc bên hữu, lầu Hoả Vân và điện Trường
Xuân, điện Long Lộc được lợp ngói làm bằng bạc.
Trải qua mưa nắng hơn 10 thế kỷ, các di tích lịch sử ở cố đô Hoa Lư
hầu như bị tàn phá, đổ nát. Hiện nay chỉ còn lại đền vua Ðinh và đền vua Lê
được xây dựng vào thế kỷ XVII.
Vườn quốc gia Cúc Phương
Cố đô Hoa Lư
9
Được thành lập ngày 7 tháng 7 năm
1962, Cúc Phương đã trở thành Vườn Quốc
Gia đầu tiên và cũng là đơn vị bảo tồn thiên
nhiên đầu tiên của Việt Nam. Với nhiều lợi
thế về cảnh quan thiên nhiên, sự đa dạng về
hệ sinh thái, các giá trị văn hoá lịch sử, từ
lâu Cúc phương đã trở thành điểm du lịch
sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn.
Cúc phương có đặc trưng là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm.
Hàng chục người ôm mới hết chu vi những cây đại thụ ngàn năm cao trọc
trời từ 45 đến 75mét như cây Đăng cổ thụ cao 45m đường kính 5m, cây Chò
Chỉ cao 70m đường kính 1,5m, cây Sấu cổ thụ cao 45m đường kính 1,5m,
cây Chò xanh ngàn năm cao 45m, chu vi gốc 25m.
Chẳng thua kém thế giới thực vật, khu hệ động vật Cúc Phương cũng
rất đa dạng và phong phú. Theo số liệu điều tra mới nhất Cúc Phương có 89
loài thú, 307 loài chim, 110 loài bò sát và lưỡng cư, 65 loài cá, và gần 2000
dạng côn trùng.
Trong các loài thú Cúc Phương, nhiều loài đã được xếp vào loại quý
hiếm, như báo gấm, báo lửa, gấu ngựa và nhiều loài được là đặc hữu của
Cúc Phương như sóc bụng đỏ. ở Cúc Phương có một loài thú linh trưởng rất
đẹp, ngoài Việt Nam ra chúng không còn tồn tại nơi nào khác trên thế giới,
đó là loài Voọc mông trắng – một báu vật của tạo hoá, loài vật này đã được
chọn làm biểu tượng của Vườn Quốc Gia Cúc Phương.
Thế giới côn trùng Cúc Phương cũng đa dạng muôn hình muôn vẻ.
Mùa bướm nở, rừng già như trẻ lại tưng bừng lấp lánh ngàn vàng, bướm
nhiều vô kể đủ dạng, đủ mầu phơi bầy một bức tranh kỳ ảo.
Từ xa xưa Cúc Phương còn là nơi cư trú và sinh sống của đồng bào
Mường với những nét văn hoá riêng. Đó là những nếp nhà sàn, những trang
phục, những phong tục tạp quán, lễ hội cồng chiêng, những điệu hò mang
đận sắc thái văn hoá dân tộc Mường.
Tam Cốc – Bích Động
Vườn quốc gia Cúc
Phương
10
Ðộng nằm trong dãy núi Ngũ Nhạc Sơn
thuộc địa phận thôn Ðam Khê, xã Ninh Hải,
huyện Hoa Lư. Năm 1773, cụ Nguyễn Nghiễm
(thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) đã đến
thăm động.
Nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, bầu trời ở đây đều
phủ một màu xanh ngợp mắt nên cụ đã đặt cho động một cái tên rất đẹp và
mộng mơ "Bích Ðộng" (có nghĩa là Ðộng Xanh). Ðến đây du khách sau khi
viếng thăm chùa, con thuyền nhỏ sẽ đưa du khách đi quanh co trong hang
núi huyền ảo. Bích Ðộng đã được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động"
(động đẹp thứ nhì ở trời Nam).
Từ Bích Ðộng du khách tiếp tục ngồi thuyền đi thăm Tam Cốc. Tam Cốc
nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba. Lúc thuyền luồn vào ba
hang, du khách sẽ cảm thấy mát lạnh. Thạch nhũ từ trần hang rủ xuống lô
nhô óng ánh như những khối châu ngọc kỳ ảo
1.2.2 Các điểm hấp dẫn về các loại hình văn hoá phi vật thể
Các di sản văn hoá phi vật thể bao gồm nghệ thuật hát chèo, hát ca trù,
hát xẩm, hát rằng thường, mo Mường và hàng loạt các lễ hội được tổ chức
khắp nơi.
Nghệ thuật hát chèo ở Ninh Bình có từ rất lâu. Lịch sử ghi lại bà tổ
chèo Phạm Thị Trân đã được Vua Đinh Tiên Hoàng (thế kỷ thứ X) phong
chức "Ưu bà" chuyên dạy hát chèo trong cung đình. Trải qua những thăng
trầm của lịch sử, nghệ thuật chèo ở Ninh Bình luôn được bảo tồn, phát triển
và trở thành một trong những cái nôi chèo có tiếng của cả nước. Nhiều tích
chèo, vở chèo như: Suý Vân, Tiếng gọi non sông đã để lại dấu ấn sâu đậm
trong lòng công chúng yêu nghệ thuật.
Một loại hình nghệ thuật lưu tồn nhiều năm qua là hát xẩm. Tiêu biểu
là Nghệ sỹ ưu tú Hà Thị Cầu (Yên Phong, Yên Mô) nay đã gần 80 tuổi vẫn
tay kéo nhị, chân dập phách, miệng nhai trầu và hát xẩm rất hay.
Người Mường (Nho Quan) có hát Rằng thường, Mo Mường trong (lễ
tang của người Mường), hát Đúm, hát Sắc Bùa (là cả một nghi lễ) diễn ra
vào dịp mùa xuân với những bài hát rất đa dạng mang tính đặc thù, đặc
trưng của địa phương. Trong nhân dân còn lưu truyền hàng trăm câu
Tam Cốc
11
chuyện, văn thơ về vua Đinh, vua Lê, về nhà Trần. Đặc biệt là những di sản
văn hoá phi vật thể gắn liền với nhiều làng nghề truyền thống như đá mỹ
nghệ, thêu ren, nghề chạm khắc gỗ, tạc tượng, trồng dâu nuôi tằm, se đay,
chẻ cói, dệt chiếu Và có biết bao nhiêu sự tích gắn liền với văn hoá dân
gian truyền miệng có giá trị thẩm mỹ, có tính giáo dục cao mà ngày nay cần
thống kê, sưu tầm, nghiên cứu để bảo tồn và phát huy về giá trị nhân văn,
đậm đà bản sắc dân tộc. Việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá ở Ninh
Bình là một sự nghiệp lớn với quy mô cả bề rộng và chiều sâu có tầm quan
trọng cả trước mắt và lâu dài.
1.2.3 Lễ hội
Ninh Bình là vùng đất có nhiều lễ hội truyền thống. Hàng năm có lễ hội
truyền thống Cố đô Hoa Lư được tổ chức từ 8-10/3 âm lịch do nhà nước
(cấp tỉnh) tổ chức trang trọng gồm 2 nội dung: phần lễ có lễ rước nước sông
Hoàng Long, lễ dâng hương, lễ tế cổ truyền tại đền Đinh, đền Lê và nhà bia
tưởng niệm vua Lý Thái Tổ. Phần hội có hội trại truyền thống Hoa Lư, thi
mâm ngũ quả, thi thư pháp, biểu diễn văn nghệ, đấu vật, đấu bóng chuyền,
đấu cờ tướng, chọi gà, bắn cung, bắn nỏ, thi người đẹp văn hoá Hoa Lư, thi
giọng hát chèo hay Ninh Bình, múa rồng, thả rồng vàng, biểu diễn tích cờ
lau tập trận, biểu diễn võ thuật, múa rối nước Lễ hội đã thu hút hàng vạn
lượt người trảy hội tưởng niệm tiền nhân, tham quan du lịch.
Lễ hội Báo Bản ở làng Nộn Khê xã Yên Từ, (Yên Mô) diễn ra ngày 14
tháng Giêng hàng năm mang đậm nét văn hoá truyền thống tâm linh. Trong
lễ hội này, con cháu tụ hội tế lễ Thành Hoàng báo công với tiền nhân-
Những người xưa kia đã có công khai phá đất đai, xây dựng xóm làng.
Trong văn tế có đoạn viết "Bí bồng phạt dịch, hữu khai tất tiền, quyết cư
vĩnh diện, công đức bất bất thiên" (Cắt cỏ phạt gai, đầu tiên lập nên cơ sở
chắc chắn, lâu dài, công đức ấy không bao giờ mất).
Hàng năm còn có lễ hội Đền Dâu, lễ hội Đền Thái Vi và một số lễ hội
khác có ảnh hưởng sâu sắc trong khu vực. Mùa xuân ở Ninh Bình còn có
nhiều hội làng mang đậm tinh thần truyền thống uống nước nhớ nguồn, cầu
may đầu xuân gắn liền với nhiều hoạt động văn hoá thể thao.
1.2.4 Đặc sản
Nhất hưởng thiên kim (cơm cháy)
Cơm cháy không có nghĩa là cháy cơm ở đáy nồi. Thực ra cơm cháy là
một đặc sản của Ninh Bình mà hầu như du khách nào đến Ninh Bình cũng
thử một lần cho biết, để rồi không bao giờ quên. Cơm cháy được làm từ
cơm, thịt bò sào hoặc tim, cật lợn sào và rau sào là không thể thiếu như hành
12
tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua. Sau khi cơm được nấu kỹ, cơm được dàn
mỏng ra thành hình tròn, để cho nguội và khô. Khi các miếng cơm khô đi thì
bỏ chúng vào chảo dầu rán cho đến khi cơm cháy ròn, thơm và kêu xèo xèo.
Đồng thời thịt bò thăn thái lát đem ướp gia vị và đem sào đều với các loại
rau, sau đó đổ lên cơm cháy đã được rán ròn. Thế là quý khách có một món
ăn tuyệt vời với đầy đủ hương vị sông, núi Ninh Bình.
Rượu cần Nho Quan
Rượu cần là loại rượu không qua chưng cất lửa. Người ta dùng gạo nếp
xay (gạo nứt) nấu thành cơm trộn đều với men đem ủ vào trong ang hoặc vỏ
sành từ 3 tháng trở lên mới được uống. Khi sắp uống, đem đổ nước vào ang.
Nước đầu bao giờ cũng ngon và ngọt, đổ nước tiếp, rượu sẽ nhạt dần. Uống
rượu cần không dùng chén, mà phải có các cần rượu làm bằng thân các cây
trúc được thông rỗng bên trong cắm vào ang rượu. Rượu cần ngon hay
không là do men làm có chất lượng không. Men rượu phải là vỏ cây mun
cùng với củ giềng, củ gừng, lá ổi xanh theo tỷ lệ nhất định, đem giã vắt lấy
nước rồi trộn với bột gạo nếp. Sau đó nặn thành bánh tròn bằng quả ổi nhỏ ủ
vào trấu cho phồng lên, để khô khoảng 10 ngày mới dùng được.
Rượu Lai Thành
Lai Thành là miền quê nằm ở cực Nam huyện Kim Sơn, có nhiều đặc
sản như gạo tám xoan, dự hương, nếp mùa, nếp hoa cau, chiếu cải Nhưng
nổi tiếng hơn cả vẫn là thứ rượu được chưng cất từ gạo trồng trên chính đất
này. Hạt gạo tròn, thơm, vỡ ra trắng như mầu sữa, thoang thoảng một vị
hương dịu ngọt Mỗi năm, người Lai Thành đều giành một phần quỹ đất để
trồng thứ lúa nếp truyền thống đó. Lúa nếp gặt về, phơi khô, sàng sẩy thật kỹ
đưa vào chum bảo quản để nấu rượu. Ở đây đã có nhiều gia đình hàng chục
đời theo nghề nấu rượu, có vài tộc họ chuyên làm men rượu và họ có những
bí quyết riêng, nên men của họ dù có để hàng năm vẫn thơm và khô. Để có
một loại men quý họ còn dùng cả một vài thứ dược liệu có tác dụng lưu
thông khí huyết, diệt khuẩn, nên rượu Lai Thành, khi nấu ra càng để lâu
rượu uống càng ngon, càng chắc.
Nem Yên Mạc (Yên Mô)
Nem chua Yên Mạc có từ lâu lắm rồi, nhưng hiện nay ở Yên Mạc số
người làm được loại nem đặc biệt này không nhiều, bởi ngoài bí quyết nhà
nghề đòi hỏi phải có niềm đam mê, yêu nghề. Quy trình chế biến phải tuân
thủ nghiêm ngặt: nem làm ra bảo đảm phải sạch, thơm ngon, mầu sắc tươi,
sợi thái phải đều, để hàng tuần vẫn dùng được và không bị biến chất.
13
Nem Yên Mạc sau thời gian ủ men là ăn được ngay, để từ 5 đến 7 ngày
mở ra sắc vẫn hồng, hương vị thơm và ngọt. Dù ăn ngay hay để lâu, khi gỡ
nem ra vẫn rời, tơi cho lên đĩa gắp từng dúm nhỏ, lấy lá ổi tầu, lá sung, cùng
rau thơm cuộn lại, chấm với nước mắm chanh, tỏi giã nhỏ thêm ớt hoặc hạt
tiêu người ăn sẽ cảm nhận đủ vị ngọt, cay, thơm lan toả khắp cơ thể.
Tái dê Hoa Lư
Nhiều địa phương khác cũng có món Tái Dê nhưng món Tái Dê ở vùng
cố đô Hoa Lư có hương vị riêng, không chỉ vì nó là đặc sản của vùng cố đô
mà nó hấp dẫn bởi không gian, vị trí đến cách làm thịt dê, chế biến món ăn,
gia vị
Người ta bắt dê được chăn thả trên những dải núi đá vôi quanh co uốn
lượn của vùng cố đô Hoa Lư đem về làm lông, thui vàng, mổ ra ướp với lá
hương nhu hoặc lá cúc tần hơn chục phút, rồi lọc lấy thịt (để cả da) đem
nhúng vào nước sôi cho tái, sau đó thái nhỏ, mỏng đều (thái ngang xớ) Lấy
vừng đã giã dập cùng các gia vị: xả, lá chanh, gừng ớt tỏi thái nhỏ, nước
chanh, bột ngọt cho vào thịt dê tái đã thái tất cả chộn đều thành tái dê. Ăn tái
dê nhất thiết phải có tương bần, và kèm theo lá sung, quả chuối xanh, khế, lá
mơ…
Tái dê là một món ăn có hương vị phong phú hấp dẫn bởi nó thơm ngon,
chua ngọt, chát bùi, tươi mát, nhẹ nhàng thú vị. Tất cả quyện thành một hư-
ơng vị riêng không giống món ăn nào khác. Du khách về đây thưởng thức
đặc sản tái dê dù chỉ một lần cũng đủ để lại ấn tượng tốt đẹp khó quên.
1.3 Con người
Ngoài đức tính cần cù chịu khó, Ninh Bình còn là mảnh đất sản sinh ra
nhiều nhân tài cho đất nước. Những danh nhân nổi tiếng nhất Ninh Bình có
thể kể đến vua Đinh Tiên Hoàng, thái hậu Dương Vân Nga, thái phó Trương
Hán Siêu, công chúa Phất Kim,…
- Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng) sinh ngày Rằm tháng Hai,năm
Giáp Thân (924) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay là thôn
Vân Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) Thân phụ là
Đinh Công Trứ, làm quan Thứ sử Hoan Châu (Nghệ An) thời Dương Đình
Nghệ (930 – 937) đến thời Ngô Vương Quyền (939 – 944).
Khoảng đầu những năm Sáu mươi của thế kỷ X, lúc bấy giờ trong nước
loạn lạc, sử gọi là loạn Thập nhị sứ quân. Nhờ thông minh, có khí phách, lại
có tài thao lược, Đinh Bộ Lĩnh, chính thức dựng cờ dấy nghĩa, mong lập
nghiệp lớn, dân quanh vùng theo về rất đông. Biết lực lượng của mình còn
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét