Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

THUẾ NHẬP KHẨU

Chuyên đề tốt nghiệp 5 Khoa Luật
dẫn tiêu dùng; bởi vì lượng hàng hoá nhập khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ
của hàng hoá đó, yếu tố này phụ thuộc vào giá cả. Giá cả cao hay thấp sẽ
quyết định giảm hay tăng sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường. Như
vậy, thông qua thuế nhập khẩu, nhà nước điều tiết việc nhập khẩu hàng hoá,
đồng thời hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng hoá không
được khuyến khích sử dụng như: thuốc lá, rượu, bia…Tuy nhiên xuất phát từ
đặc trưng cơ bản của loại thuế này là đánh vào hàng hoá nhập khẩu và sau đó
được cấu thành trong giá cả hàng hoá nhập khẩu nên loại thuế này có vai trò
khá đặc thù là bảo hộ sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh
không cân sức giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá ngoại nhập. Cụ thể là,
đối với hàng hoá nhập khẩu do bị đánh thuế nhập khẩu nên về lý thuyết giá cả
hàng hoá này trên thị trường nhập khẩu sẽ tăng lên, trong khi đó, các hàng
hoá được sản xuất trong nước do không phải chịu thuế nhập khẩu (hoặc chỉ
chịu thuế nhập khẩu do phần nguyên liệu hoặc máy móc nhập khẩu) nên giá
cả của chúng có xu hướng rẻ hơn và do đó, sức cạnh tranh lớn hơn hàng hoá
ngoại nhập. Điều này cho thấy, việc đánh thuế nhập khẩu thực chất là một
biện pháp để bảo vệ sản xuất trong nước, khi chính phủ nhận thấy những bất
lợi nghiêng về phía hàng hoá được sản xuất từ phía các doanh nghiệp trong
nước. Mặt khác, thuế nhập khẩu giúp các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
các ngành còn non trẻ trong nước có thời gian trường thành và sinh lời, từ đó
có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu.
Theo quy định của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT), thuế quan-với rất ít ngoại lệ-là một công cụ chính sách duy nhất
được chấp nhận để bảo hộ. Nó là công cụ cấp cao hơn để thay thế cho các
công cụ bảo hộ như các rào cản phi thuế (NTB
s
), hạn ngạch, giấy phép và các
rào cản kỹ thuật thương mại (TBT
s
) vì thuế quan ít tạo ra trục lợi và tham
nhũng trong thực tế và nó cũng hạn chế được việc sử dụng sức mạnh độc
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 6 Khoa Luật
quyền trong nước, nếu có, trong khi các rào cản phi thuế quan không làm
được. So với các công cụ bảo hộ khác thuế nhập khẩu có đặc điểm khá rõ
ràng, ổn định, thuận tiện cho nhà nhập khẩu dự báo về thị trường.
Tuy nhiên, thuế nhập khẩu cũng có những tác động tiêu cực tới sản xuất
và tiêu dùng như: khuyến khích sản xuất không hiệu quả trong nước làm tăng
giá hàng hoá khiến người tiêu dùng cắt giảm mua sắm, gián tiếp tạo ra môi
trường cho buôn lậu…do vậy, điều quan trọng là phải “lựa chọn người được
bảo hộ”, tức là xác định ứng cử viên có thể đáp ứng các điều kiện cho sự can
thiệp, lựa chọn và duy trì mức thuế suất nhập khẩu.
2. Tác động của thuế nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự tác động của thuế
nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ngày càng trở nên
sâu sắc. Sự tác động thể hiện ở hai khía cạnh :
- Điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý và định hướng
phát triển kinh tế.
- Đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh và công bằng xã
hội.
Việc tăng cường vai trò kinh tế xã hội của nhà nước dẫn đến tốc độ chi
tiêu của nhà nước ngày càng tăng lên và hậu quả tất yếu là đòi hỏi nhà nước
phải mở rộng quỹ tài chính, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế, trong đó có
thuế nhập khẩu. Nhu cầu về nguồn tài chính càng lớn thì nhà nước cần phải
tăng cường chức năng của thuế, chính trong quá trình đó, chức năng điều
chỉnh của thuế được phát huy hiệu quả. Nhà nước có thể sử dụng công cụ thuế
nhập khẩu để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của hoạt động nhập
khẩu, hoặc làm yếu đi sự tích luỹ, tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có
khả năng thanh toán của dân cư… Thuế nhập khẩu được sử dụng để tác động
lên lợi ích kinh tế của các chủ thể. Với công cụ này, sự can thiệp của nhà nước
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 7 Khoa Luật
không còn mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh
hay không kinh doanh, mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh
doanh. Đồng thời hệ thống pháp luật về thuế nhập khẩu được áp dụng chung
cho các thành phần kinh tế kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau, đảm bảo
sự công bằng và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Điều này được thể hiện
thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc
mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm
pháp luật về thuế nhập khẩu theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hoá cơ
cấu hệ thống thuế và thuế suất. Chính sách thuế nhập khẩu của các nước đang
có xu hướng nới lỏng dần các mức thuế suất theo hướng tự do hoá nên có thể
trong tương lai, ranh giới để phân biệt thuế nhập khẩu với thuế nội địa sẽ trở
lên rất mong manh và thậm chí có thể bị “xoá nhoà” hoàn toàn. Song, cần
phải nhận thức thuế nhập khẩu vẫn có những tác động đáng kể, nhất là đối với
các nước đang trên con đường phát triển như Việt Nam.
II. Pháp luật Việt Nam về thuế nhập khẩu.
1. Sự cần thiết phải ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán
trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng tăng. Trong bối cảnh nền kinh
tế thế giới hội nhập thì pháp luật thuế của các nước cũng đang trong xu thế
hội nhập với khu vực và thế giới. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.
Thuế nhập khẩu cùng với thuế xuất khẩu là công cụ được nhà nước ta bắt
đầu sử dụng năm 1951, thời điểm này thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước
thực hiện chức năng quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do
và vùng bị tạm chiếm, bảơ vệ và phát triển kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc
giao lưu các loại hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân
dân. Phương châm đấu tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 8 Khoa Luật
thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời
sống nhân dân. Do đó, một mặt, nhà nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các
hàng hoá của vùng tự do, một mặt, hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch.
Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30% trở lên.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước
ta ban hành ngày 29/12/1987. Đạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp
thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó, nó có sự phân biệt trong áp
dụng chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với hàng hoá phi mậu dịch
khác.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày
26/12/1991 và được sửa đổi, bổ sung hai lần: Luật sửa đổi, bổ sung được
Quốc hội thông qua ngày 5/7/1993 và Luật sửa đổi bổ sung được Quốc hội
thông qua ngày 20/5/1998 nhưng chưa được hệ thống hóa lại. Do đó, bộc lộ
một số điểm cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới về
hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển đất nước.
Cụ thể là:
- Một số quy định trong Luật chưa phù hợp với những nội dung đã cam
kết trong đàm phán quốc tế và đang thực hiện theo các văn bản dưới Luật, cần
quy định trong Luật để đảm bảo tính minh bạch, đồng thời tạo điều kiện thuận
lợi trong đàm phán gia nhập WTO như: Quy định về giá tính thuế nhập khẩu,
về thuế suất và thẩm quyền ban hành biểu thuế nhập khẩu, về thuế chống bán
phá giá, thuế chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử, về khiếu nại và giải quyết
khiếu nại, về ưu đãi thuế nhập khẩu.
- Có những quy định trong Luật, qua thực hiện đã phát huy tác dụng
tốt, tạo sự thông thoáng cho doanh nghiệp nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu
về quản lý Nhà nước về chống gian lận thương mại, chống thất thu ngân sách
và dễ bị lợi dụng như: Quy định về thời hạn nộp thuế, về miễn thuế nhập
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 9 Khoa Luật
khẩu, và điều kiện giảm thuế nhập khẩu.
- Một số điểm quy định trong Luật chưa phù hợp với quy định trong
Luật Hải quan, cũng chưa phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính trong lĩnh
vực thuế và hải quan, như: Quy định về thông báo thuế, truy thu và hoàn thuế.
Căn cứ vào chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã được
Thủ tướng chính phủ phê duyệt và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc
ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thay thế Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu 1991 và Luật sửa bổ sung năm 1993,1998 là một yêu cầu cấp
thiết.
Trong bối cảnh đó, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành được
Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, chính thức có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2006.
2. Những điểm khác biệt về thuế nhập khẩu trong Luật thuế xuất khẩu,
nhập khẩu 2005 so với Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 1998.
Theo quy định của luật hiện hành về thuế nhập khẩu có một số điểm mới
sau:
2.1. Về đối tượng chịu thuế:
Theo quy định tại điều 1, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm
1991, đối tượng chịu thuế nhập khẩu là hàng hoá được phép nhập khẩu qua
của khẩu biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ khu chế xuất đưa ra thị trường
trong nước. Nhưng trong thực tế, bên cạnh những khu chế xuất được quy định
trong luật, ở nước ta lại hình thành nhiều khu ưu đãi thuế quan khác được
hưởng cơ chế ưu đãi thuế quan tương tự như khu chế xuất, như khu thương
mại và phát triển kinh tế Lao Bảo, khu kinh tế mở Chu Lai,…quan hệ trao đổi
hàng hoá giữa các khu này với thị trường trong nước được xem là quan hệ
xuất nhập khẩu. Do đó, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành, đã quy
định tại điều 2, theo đó đối tượng chịu thuế nhập khẩu là hàng hoá nhập khẩu
qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, và hàng hoá được đưa từ khu phi thuế quan
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 10 Khoa Luật
vào thị trường trong nước. Khu phi thuế quan là khu vực kinh tế nằm trong
lãnh thổ Việt Nam, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quyết
định của Thủ tướng chính phủ. Quy định như vậy sẽ bao quát hết các đối
tượng chịu thuế.
2.2. Về đối tượng không chịu thuế.
Luật hiện hành bổ sung thêm đối tượng không chịu thuế nhập khẩu gồm
hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng vào
khu phi thuế quan, hàng hoá đưa từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế
quan khác. Đồng thời, chuyển đối tượng “hàng viện trợ không hoàn lại” từ
đối tượng miễn thuế sang đối tượng không chịu thuế nhập khẩu.
2.3. Về giá tính thuế.
Theo khoản 2 điều 7 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991: giá
tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu theo hợp đồng, kể cả
chi phí vận tải, bảo hiểm. Trong trường hợp nhập khẩu theo phương thức
khác, hoặc giá trên hợp đồng quá thấp so với giá mua thực tế thì giá tính thuế
là giá do chính phủ quy định (giá tối thiểu). Tuy rằng, việc áp dụng giá tối
thiểu là dễ thực hiện và chống gian lận thương mại nhưng lại không phù hợp
với thông lệ quốc tế, nhiều trường hợp không chính xác, mang tính áp đặt của
nhà nước nên dẫn đến tình trạng lạm thu hoặc thất thu. Để thực hiện cam kết
quốc tế và đảm bảo tính công bằng minh bạch về xác định giá tính thuế với
hàng nhập khẩu, khoản 2 điều 9 Luật hiện hành quy định về giá tính thuế và
tỷ giá tính thuế như sau: "giá tính thuế với hàng nhập khẩu là giá thực tế phải
trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng, phù hợp với cam kết quốc
tế”. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với đồng tiền nước ngoài để xác định giá tính
thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước Việt Nma công bố
tại thời điểm tính thuế.
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 11 Khoa Luật
2.4. Các biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống
phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hoá:
Để đảm bảo tính đồng bộ trong sử dụng các biện pháp này, điều 11 quy
định việc sử dụng biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ
cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hoá. Theo đó, ngoài việc
phải chịu thuế nhập khẩu, hàng hoá đó còn phải áp dụng một số biện pháp về
thuế sau:
- Tăng mức thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu quá mức vào
Việt Nam theo quy định của pháp luật về tự vệ trong nhập khẩu nước ngoài
vào Việt Nam.
- Thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá bán phá giá nhập khẩu vào
Việt Nam theo quy định của pháp luật về chống bán phá giá hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam.
- Thuế chống trợ cấp đối với hàng hoá được trợ cấp vào Việt Nam theo
quy định của pháp luật Việt Nam về chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam.
-Thuế chống phân biệt đối xử đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt
Nam có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ mà nước đó có sự
phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có các biện pháp phân biệt đối xử
khác theo quy định của pháp luật về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia
trong thương mại quốc tế.
Vấn đề chống trợ cấp, chống bán phá giá, và tự vệ trong nhập khẩu hàng
hoá được quy định trong các pháp lệnh của Uỷ ban Thường Vụ Quốc Hội và
chi tiết trong các Nghị định của chính phủ đã ban hành.
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường Vụ Quốc Hội số 22/2004/PL-
UBTVQH11 ngày 20 tháng 8 năm 2004 về chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu
vào Việt Nam.
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 12 Khoa Luật
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường Vụ Quốc Hội số 42/2002/ PL-
UBTVQH 10 ngày 25 tháng 5 năm 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá
vào Việt Nam.
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường Vụ Quốc Hội số 20/2004/PL-
UBTVQH 11 ngày 29 tháng 4 năm 2004 về chống bán phá giá hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam.
- Nghi định số 89/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh chống trợ cấp hàng nhập khẩu vào Việt Nam.
- Nghị định số 90/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt
Nam.
2.5. Về trách nhiệm của đối tượng nộp thuế trong việc kê khai, nộp thuế.
Theo quy định cũ thì các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thực hiện theo cơ
chế “thông báo thuế”. Theo đó, doanh nghiệp kê khai số liệu theo mẫu biểu,
sau đó nộp thuế theo thông báo thuế của cơ quan thuế, việc tính toán số thuế
phải nộp là trách nhiệm của cơ quan thuế. Để nâng cao trách nhiệm của việc
chấp hành pháp luật về thuế, luật hiện hành đã quy định đối tượng nộp thuế
nhập khẩu có trách nhiệm tự kê khai, tự nộp. Có thể nói, sửa đổi này sẽ đảm
bảo quyền chủ động và nâng cao trách nhiệm của đối tượng nộp thuế, hạn chế
sự áp đặt và giảm thiểu rủi ro cho cơ quan hải quan, phù hợp với cơ chế tự
khai, tự nộp được quy định trong Luật Hải quan.
2.6. Về miễn thuế, hoàn thuế
Việc miễn thuế, hoàn thuế tuy đã được quy định trong Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu 1991 và đã được sửa đổi, bổ sung. Nhưng, trong quá
trình mở rộng quan hệ thương mại đã phát sinh một số trường hợp phải hoàn
thuế. Do vậy, để bao quát các trường hợp phải hoàn thuế, luật hiện hành đã bố
sung 3 trường hợp hoàn thuế nhập khẩu: Đó là hàng hoá đã nhập khẩu, đã nộp
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 13 Khoa Luật
thuế nhưng vì lý do khách quan phải tái xuất; hàng hoá là máy móc thiết bị,
dụng cụ phương tiện vận chuyển của các tổ chức đã được phép tạm nhập để
thực hiện các dự án đầu tư và được tái xuất khỏi Việt Nam khi hoàn thành dự
án; trường hợp hoàn thuế do nhầm lẫn trong kê khai.
Ngoài ra, nhiều nội dung của Luật được quy định dựa trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc một số quy định pháp luật cũ đã phát huy tích cực trong thực tế,
phù hợp cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
3. Nội dung pháp luật thuế nhập khẩu.
3.1. Những căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật thuế nhập khẩu.
Quan hệ pháp luật thuế nhập khẩu được hình thành giữa hai chủ thể là
nhà nước-người thu thuế và cá nhân, tổ chức-người nộp thuế.
Quan hệ pháp luật về thuế nhập khẩu phát sinh dựa trên những căn cứ
sau:
3.1.1.Văn bản quy phạm pháp luật quốc gia.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, quy phạm pháp luật quốc gia về
thuế nhập khẩu được thể hiện tập trung trong một đạo luật riêng gọi là Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hoặc quy định thành một chương riêng trong
đạo luật Hải quan. Ở Việt Nam, các quy định về thuế nhập khẩu được thể hiện
trong Luật xuất khẩu, thuế nhập khẩu đựơc Quốc hội thông qua năm 1991,
sửa đổi bổ sung năm 1993 và năm 1998, đang áp dụng là Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu năm 2005.
Nhìn chung, tuy có sự khác nhau giữa các nước trong cách thiết kế quy
phạm pháp luật quốc gia về thuế nhập khẩu nhưng thực chất các quy phạm
này đều tìm cách quy định những vấn đề cơ bản sau:
- Xác định chủ thể nộp thuế nhập khẩu là ai.
- Xác định đối tượng nộp thuế nhập khẩu là những hàng hoá, dịch vụ
nào.
- Xác định thuế suất thuế nhập khẩu và giá tính thuế đối với hàng nhập
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45
Chuyên đề tốt nghiệp 14 Khoa Luật
khẩu.
- Xác định trình tự, thủ tục thu thuế nhập khẩu.
- Xác định các trường hợp miễn giảm, hoàn thuế.
- Xác định các hành vi vi phạm và chế tài đối với từng hành vi đó.
3.1.2.Văn bản quy phạm pháp luật quốc tế.
Để xúc tiến và thực hiện các hoạt động thương mại với bên ngoài thì mỗi
quốc gia phải chấp nhận ràng buộc với “luật chơi”chung trong thương mại
quốc tế, trong đó có vấn đề cắt giảm thuế quan và giảm thiểu các rào cản phi
thuế đối với hoạt động thương mại.
Các quy phạm pháp luật quốc tế thể hiện ngay trong các điều ước quốc tế
quan trọng như: Hiệp định GATT, Hiệp định CEPT hay Hiệp định Thương
mại Việt Nam-Hoa Kỳ, cũng như các Hiệp định Thương mại khác đã được ký
kết giữa Việt Nam với các nước. Trong khi các quy phạm pháp luật quốc gia
điều chỉnh quan hệ thuế nhập khẩu giữa nhà nước với người nộp thuế, thì quy
phạm pháp luật quốc tế lại điều chỉnh quan hệ thuế nhập khẩu giữa các quốc
gia với nhau, trong việc phân định quyền đánh thuế hoặc quan hệ giữa quốc
gia này với các cá nhân, tổ chức mang quốc tịch nước khác trong việc thực
hiện quyền đánh thuế và nghĩa vụ nộp thuế.
Các quy phạm pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu thường quy định
những vấn đề cơ bản sau:
- Xác định những nguyên tắc điều chỉnh việc áp dụng thuế nhập khẩu
như: nguyên tắc tối huệ quốc (MFN), nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT),
nguyên tắc chống bán phá giá, nguyên tắc tính thuế theo trị giá hải quan…
- Xác định danh mục các loại hàng hoá chịu thuế nhập khẩu (dòng
thuế) thuộc diện cắt giảm thuế ngay, cắt giảm bình thường, loại trừ hoàn toàn
và loại trừ tạm thời.
- Xác định những nguyên tắc chọn luật áp dụng, chẳng hạn như
Lê Thị Hà Ly Luật kinh doanh 45

Xem chi tiết: THUẾ NHẬP KHẨU


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét