Luận văn tốt nghiệp
lớn đến mức độ thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của các nhà
quản lý dự án.
- Dự án bị không chế bởi thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc thù
phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất
cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền
kinh tế.
- Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực. Thông thường, các sự án bị ràng
buộc về vốn, vật tư và lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn mức độ ràng
buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp: mọi quyết định liên quan đến
các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối bởi nhiều
mối quan hệ, chẳng hạn: chủ đầu tư, nhà tư vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ,
nhân công, các nhà kỹ thuật Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan
trọng góp phần đạt tới mục tiêu của dự án.
1.3. Phân loại dự án đầu tư.
Các dự án thường rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô, thời hạn và
được phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Tại nhiều nước trên thế giới thì
dự án được phân loại theo một số tiêu thức sau:
Theo người khởi xướng: Dự án được phân loại thành dự án cá nhân, dự
án tập thể, dự án quốc gia, dự án quốc tế.
Theo lĩnh vực dự án: Dự án được phân thành dự án xã hội, dự án kinh tế,
dự án tổ chức, dự án kỹ thuật, dự án hỗn hợp.
Theo loại hình dự án: Dự án được phân loại thành dự án giáo dục đào
tạo, dự án nghiên cứu và phát triển, dự an đổi mới, dự án hỗn hợp.
Theo thời hạn: Dự án ngắn hạn, dự án trung hạn, dự án dài hạn.
Theo cấp độ: Dự án được phân loại thành dự án lớn và dự án nhỏ.
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
5
Luận văn tốt nghiệp
Tại Việt Nam, theo “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm
theo Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5-5-2000 của Chính phủ vể sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999, thì dự án được phân
loại cụ thể như sau:
- Dự án nhóm A:
+ Các dự án thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính bảo mật
quốc gia, có ý nghĩa chính trị xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng hạ
tầng khu công nghiệp mới
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Không kể mức vốn đầu tư.
+ Các dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Không kể mức vốn đầu tư.
+ Các dự án: Công nghiệp điện, khai thác dầu khí, chế biến dầu khí, hoá
chất, phân bón, chế tạo máy (bao gồm cả mua và đóng tầu, lắp ráp ô tô), xi
măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu,
cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Trên 600 tỷ đồng.
+ Các dự án: thuỷ lơi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng
kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược,
thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông,
BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, đường giao thông nội thị thuộc các khu
đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Trên 400 tỷ đồng.
+ Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp
nhẹ, sành, sứ, thuỷ tinh; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm
thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến
nông, lâm sản.
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
6
Luận văn tốt nghiệp
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Trên 300 tỷ đồng.
+ Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng
dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự
án khác.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Trên 200 tỷ đồng.
- Dự án nhóm B:
+ Các dự án: Công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy
(bao gồm cả mua và đóng tầu, lắp ráp ô tô), xi măng, luyện kim, khai thác,
chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân
bay, đường sắt, đường quốc lộ.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Từ 30 đến 600 tỷ đồng.
+ Các dự án: thuỷ lơi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng
kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược,
thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông,
BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, trường phổ thông, đường giao thông
nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Từ 20 đến 400 tỷ đồng.
+ Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp
nhẹ, sành, sứ, thuỷ tinh; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thiết bị xây
dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Từ 15 đến 300 tỷ đồng.
+ Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng
dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự
án khác.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Từ 7 đến 200 tỷ đồng.
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
7
Luận văn tốt nghiệp
- Dự án nhóm C:
+ Các dự án: Công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy
(bao gồm cả mua và đóng mới tầu, lắp ráp ô tô), xi măng, luyện kim, khai
thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ. Các trường phổ thông nằm trong khu quy
hoạch (không kể mức vốn)
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Dưới 30 tỷ đồng.
+ Các dự án: thuỷ lơi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng
kỹ thuật, kỹ thuật điện, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ
khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng
khu nhà ở,trường phổ thông, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã
có quy hoạch chi tiết được duyệt.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Dưới 20 tỷ đồng.
+ Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp
nhẹ, sành, sứ, thuỷ tinh; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm
thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến
nông, lâm sản.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Dưới 15 tỷ đồng.
+ Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân
dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Dưới 7 tỷ đồng.
2. CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ CHO DỰ ÁN
2.1. Khái niệm về nguồn vốn đầu tư
Các nhà kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác- Lênin và kinh tế
học hiện đại chứng minh rằng: nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
8
Luận văn tốt nghiệp
kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình
tái sản xuất xã hội.
Theo Adam Smith, nhà kinh tế học điển hình của trường phái kinh tế học
cổ điển cũng đã đưa ra quan điểm về nguồn hình thành vốn đầu tư và trong
tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), ông đã viết rằng: Tiết kiệm là
nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho
quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có
tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ
giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến
tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực,
khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ
cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m), trong đó:
c là phần tiêu hao vật chất
(v + m) là phần giá trị sáng tạo ra
Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền
sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất
(c) của khu vực II. Tức là:
(v + m)
I
> c
II
Hay nói cách khác:
(c + v + m)
I
> c
II
+ c
I
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không
chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà
còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất tiếp theo.
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
9
Luận văn tốt nghiệp
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c + v + m) < (v + m)
I
+ (v + m)
II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn,
nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ
đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô
đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng
thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải
tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu
dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C. Mác,
con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất và tiêu dùng. Hay
nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp
ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà
kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng
quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, John Maynard Keynes đã
chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển
vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra
của thu nhập so với tiêu dùng:
Điều đó có nghĩa là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư (i) = Tiết kiệm (s)
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
10
Luận văn tốt nghiệp
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất
song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là tiêu
dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc
cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải
được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu
tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì
vậy, xét về mặt tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người
ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà
người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư
nhân và tiết kiệm của chính phủ.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể
lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang
nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể
ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước
ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được
thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ của
nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn
đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành
một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
11
Luận văn tốt nghiệp
của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư
tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho
nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Từ những quan điểm về sự hình thành nguồn vốn đầu tư của các nhà kinh
tế học nói trên mà ta có thể đưa ra khái niệm về nguồn vốn đầu tư như sau:
Nguồn vốn đầu tư: là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân
phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước
và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và
nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2.2. Nguồn vốn đầu tư cho dự án
Việt Nam cũng như hầu hết các nước đang phát triển, trong giai đoạn
đầu của sự phát triển kinh tế, do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng
và tích luỹ vốn đều rất hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu của nền kinh tế lại
cần những khoản vốn lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xây dựng các công
trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế. Do đó, trong giai đoạn này, nền
công nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng hoá xuất khẩu đại bộ
phận sẽ là sản phẩm sơ chế như: dầu thô, gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản…là
những hàng hoá có giá trị thấp. Ngược lại, nhu cầu phát triển đòi hỏi phải
nhập khẩu máy móc, thiết bị, các sản phẩm hoá chất và cả kỹ thuật công
nghệ, là những sản phẩm có giá trị cao. Việc xuất nhập khẩu hàng hoá như
vậy làm cán cân thương mại và cán cân thanh toán luôn ở tình trạng nhập
siêu. Thách thức này làm gia tăng sự mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng
về vốn đầu tư. Vì thế, mà ngoài nguồn vốn trong nước ra thì ta có thể tranh
thủ vốn đầu tư từ nước ngoài để bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư
phát triển của đất nước.
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
12
Luận văn tốt nghiệp
2.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ nguồn vốn nhà nước,
nguồn vốn từ khu vực tư nhân và từ thị trường vốn.
Nguồn vốn đầu tư trong nước giữ vai trò quan trọng đối với nguồn vốn
đầu tư của đất nước, nó vừa là điều kiện để phát triển kinh tế vừa là cơ sơ để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, quyết định cho sự phát triển, thể hiện:
+ Để tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhất thiết
phải có vốn đối ứng bên trong để triển khai các công trình. Vốn đối ứng này
nhiều khi phải sử dụng để xây dựng các cơ sở hạ tầng như: điện, nước, thông
tin, bệnh viện, trường học…
+ Nếu không có vốn trong nước đủ mức thì xét về lâu dài, của cải sản
xuất ra (GDP) có thể lớn, nhưng nguồn thu nhập thực tế mà nhân dân ta có
được (GNP) lại thấp. Đại bộ phận lợi nhuận được tạo ra ở trong nước sẽ bị
chuyển ra nước ngoài, nền kinh tế sẽ có một sự phát triển giả tạo.
+ Vốn đầu tư nước ngoài thường chỉ tập chung vào những vùng hoặc
những lĩnh vực hứa hẹn tạo ra được lợi nhuận hấp dẫn. Chỉ có vốn đầu tư
trong nước thì mới đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế trên tất cả các
vùng rộng lớn của đất nước, đặc biệt là các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa
và cả các vùng nông thôn.
Hiện nay, trước tình trạng thất thoát lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư
nhà nước, thì vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đâu tư từ nhà nước đang
là vấn đề cấp thiết được đưa ra nghiên cứu để khắc phục tình trạng này. Vì
vậy, đề tài nghiên cứu này chỉ đi phân tích nguồn vốn nhà nước mà không đi
nghiên cứu cụ thể các nguồn vốn đầu tư khác.
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
13
Luận văn tốt nghiệp
2.2.1.1 Nguồn vốn đầu tư nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư
phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
(1) Nguồn vốn ngân sách nhà nước: là nguồn chi của ngân sách nhà
nước cho đầu tư và là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Nguồn vốn ngân sách thường được sử dụng đầu tư cho các dự án thuộc
chương trình đầu tư công cộng, các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh
vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây
dựng đô thị và nông thôn. Hàng năm, nguồn vốn ngân sách đầu tư cho dự án
thường chiếm khoảng 20% tổng nguồn vốn đầu tư chung. Tỷ lệ này tuy không
lớn, nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư
chung, tạo môi trường để thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư
phát triển.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước được hình thành chủ yếu từ nguồn thu
trong nước của ngân sách, sau khi đã chi trả cho các khoản chi thường xuyên,
dự phòng hoặc trả nợ. Ngoài ra nó còn gồm cả vốn ODA viện trợ không hoàn
lại hoặc vốn vay đưa vào ngân sách. Vì vậy mà tình hình thu, chi ngân sách
hàng năm tăng hay giảm sẽ quyết định rất lớn đến nguồn vốn chi cho các dự
án đầu tư hàng năm của quốc gia. Sau đây ta sẽ đi xem xét kỹ hơn về tình
hình thu, chi của ngân sách qua các năm từ 2001 đến 2005:
Hoàng Mạnh Cường - Tài chính công 44
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét