ngoại hối.
Sau khi đế quốc Roma sụp đổ và trong suốt thời gian đầu thời kì trung
cổ,các giao dịch kinh doanh ngoại hối bị giảm sút đáng kể,bởi do các điều
kiện về tài chính và chính trị không ổn định và khối lượng thương mại quốc
tế giảm đáng kể.Vào thế kỉ XI,việc kinh doanh ngoại hối bắt đầu thịnh
vượng trở lại.Khi các luồng thương mại và tư bản quốc tế tăng lên,thì việc
trao đổi ngoại hối bằng các đồng xu trờ nên không hiệu quả,do vậy các
giao dịch bằng đồng xu trở nên ngày càng giảm.
Để đáp ứng cho nhu cầu thương mại quốc tế ngày càng tăng đã tạo điều
kiện cho hình thức ngân hàng quốc tế ra đời và phát triển.Các ngân hàng
này mở chi nhánh và phát triển mối quan hệ với các ngân hàng đại lý ở các
nước bạn là đối tác .Các hối phiếu ra đời và trở thành công cụ chuyển
nhượng được.Khi người hưởng lợi hối phiếu chuyển nhượng cho bên thứ
ba,thì một hình thức tiền tệ mới đã được tạo ra.Sự phát triển này đã giúp
cho thị trường phát triển hơn và tăng khối lượng kinh doanh ngoại hối(mua
đi bán lại nhiều lần).Khi các giao dịch chuyển khoản giữa các ngân hàng
trở nên nhanh hơn đã trở thành điều kiện thúc đẩy thị trường ngoại hối
phát triển.Thị trường ngoại hối đã chuyển từ hệ thống tiền mặt hữu hình
sang thị trường dưới dạng hỗn hợp giữa tiền mặt và tín dụng.
Nói một cách tổng quát,trong quá trình của thiên niên kỉ thứ hai,sự phát
triển của thị trường ngoại hối,ngoài vấn đề tốc độ phát triển chậm,những
khó khăn trong truyền thông và đi lại,còn rất nhiều vấn đề cần phải vượt
qua,ví dụ:trong nhiều năm,các tôn giáo đã không tán thành các hoạt động
kinh doanh ngoại hối(họ cho rằng các hoạt động này mang tính chất buôn
tiền,kinh doanh tiền,có tính chất đầu cơ không lành mạnh),thậm chí một số
chính phủ đã coi đây là hoạt động bất lương và bị cấm.Trong những năm
1800,các tuyến cáp được nối qua Atlantic,tạo ra cuộc cách mạng truyền
thông giữa châu Âu và Bắc Mỹ,khời điểm cho sự hình thành và phát triển
thị trường ngoại hối có tính chất toàn cầu như hiện nay.
1.1.2.2.Đại chiến thế giới lần thứ nhất và cuộc đại suy thoái
Trong khoảng thời gian đầu thế kỉ XX,hai cuộ đại chiến thế giới đã làm
gián đoạn sự phát triển của thị trường ngoại hối giữa các quốc gia thù
địch,thị trường ngoại hối vỡ ra từng mảnh nhỏ.Trong những năm đầu sau
đại chiến thế giới lần thứ nhất,thị trường ngoại hối trở nên vô cùng biến
động và trở thành đối tượng đầu cơ trên quy mô lớn.Các giao dịch thương
mại quốc tế kéo theo việc mua bán ngoại tệ trờ nên vô cùng rủi ro và biện
pháp tự bảo vệ bằng hợp đồng kì hạn trở nên phổ biến.Trong thực tế,biện
pháp tự bảo vệ bằng hợp đồng kì hạn trở nên phổ biến tới mức,trong một
số lĩnh vực,nó đã trở thành một bộ phận cấu thành bắt buộc trong hợp
đồng thương mại,hay nói cách khác,các hợp đồng thương mại phải có
kèm theo các hợp đồng ngoại hối kì hạn thì mới có giá tri.Tuy nhiên,nhiều
ngân hàng,các nhà hoạch định chính sách cho rằng các hợp đồng kì hạn
bản chất là hoạt động đầu cơ,do đó đã không ủng hộ để cho thị trường kì
hạn phát triển.Mặc dù không được sự ủng hộ từ nhiều phía nhưng đứng
trước nhu cầu thương mại quốc tế thì hợp đồng kì hạn vẫn tồn tại và phát
triển.
Sự đình chỉ chế độ bản vị vàng vào năm 1931,cùng sự sụp đổ của các
ngân hàng và các vấn đề khó khăn trong thanh toán đối với một số đồng
tiền đã trở thành trở ngại đáng kể cho sự phát triển của thị trường ngoại
hối.Thật khó khăn khi giao dịch ngoại hối trong những năm đầu
1930,nhưng cũng giống như các thị trường khác ,những điều kiện giao
dịch dần trở lại bình thường vào giữa những năn 1930.London đã trở
thành trung tâm ngoại hối lớn nhất thế giới trong thời kì giữa hai cuộc đại
chiến thế giới,bên cạnh đó các trung tâm khác như New York,Paris,Zurich
cũng phát triển mạnh mẽ.
1.1.2.3.Thời kì sau đại chiến thế giới lần thứ hai
Vị thế trung tâm tài chính của Anh bị giảm sút rõ rệt trong khoảng thời gian
đại chiến thế giới lần 2.Sau đại chiến,đồng tiền USD đã trở thành một trong
những đồng tiền chính mang tính quốc tế.Đồng bảnh Anh vẫn là đồng tiền
manh tính chủ đạo bởi vì do USD khan hiếm và dù sao thì vai trò nòng cổt
của London trên thị trường tài chính quốc tế.Sự tham gia của chính phủ
ngày càng trở nên rõ rệt vào các năm 1930 và càng trở nên thường xuyên
hơn sau đại chiến thế giới lần 2 và được duy trì cho đến ngày nay.Không
giống như thời kì hậu đại chiến thế giới lần thứ nhất,khi phải chứng kiến
những biến động vô lối của thị trường ngoại hối ,thì thời gian sau đại chiến
thế giới lần 2 được đánh giá là thị trường mang tính ổn định và được kiểm
soát một cách chặt chẽ,tỷ giác các đồng tiền được neo lại và biến đổi trong
biên độ hẹp.
Thỏa thuận Bretton Woods vào năm 1944 đã mang lại sự ổn định như
mong muốn và một trật tự mới trên thị trường ngoại hối,tỷ giá các đồng tiền
chính được neo đậu cố định với USD và giá trị của USD được neo đậu cố
định với vàng với tỷ lệ 35USD=1ounce.USD được các nước chọn làm
đồng tiền dự trữ bở vì nước Mỹ cam kết với NHTW rằng sẽ đổi USD thành
vàng không hạn chế theo tỷ giá cố định 35USD=1ounce.
Hệ thống tỷ giá cố định bị sụp đổ vào năm 1971,nguyên nhân chính là so
sự mất cân đối nghiêm trọng cán cân thanh toán quốc tế giữa các quốc gia
và càng ngày người nước ngoài nắm giữ USD càng nhiều.Sau nỗ lực hồi
phục hệ thống này vào năm 1973 không thành đã mở đầu cho thời kì chế
độ thả nổi và được duy trì cho đến ngày nay.Những đồng tiền chính giao
dịch trên thị trường ngoại hối được thả nổi dưới sự giám sát của các
NHTW phát hành.Các NHTW tham gia trên thị trường mở thường xuyên
nhằm duy trì hoạt động trên thị trường ngoại hối có trật tự hơn,hoặc tham
nha nhằm mục đích điều chỉnh theo hướng biến động tỷ giá có lợi cho
họ.Các đồng tiền của các nước nhỏ hơn được neo cố định vào một số
đồng tiền chính,chủ yếu vẫn là USD,hoặc với đồng tiền của nước bạn
hàng lớn nhất.Hệ thống tỷ giá thả nổi rõ ràng đã làm cho công tác dự báo
trong tương lai trở nên cực kì khó khăn,nhưng nó lại linh hoat hơn nhiều so
với tỷ giá cố định trong việc xử lý các áp lực thị trường và những cú sốc trê
thị trường ngoại hối như đã xảy ra trong suốt thời kì có hiệu lực của hiệp
ước Bretton Woods.
1.1.2.4.Sự biến động vô lối của tỷ giá ngày nay
Trong những năm 1970,1980 và những năm đầu 1990,chúng ta đã được
chứng kiến sự biến động của thị trường ngoại hối tăng lên không ngừng và
thị trường trở nên không thể dự đoán được.Một trong những lý do chính
khiến cho thị trường trở nên biến động mạnh là do sự gia tăng đáng kể của
các thành viên tham gia thị trường nhằm mục đích tìm kiếm các cơ hội sinh
lời khi thị trường biến động.Ngoài ra các nguồn lực về kĩ thuật và công
nghệ có sẵn có của các nhà kinh doanh,các nhà quản trị tài chính và các
công ty bảo hiểm đã được cải tiến một cách cơ bản.
Trong những năm đầu 1990,ngân hàng và những nhà kinh doanh đầu tư
chuyên nghiệp vẫn tiếp tục là những người đóng vai trò chủ đạo trên thị
trường ngoại hối.Các công ty thường xuyên tích cực tham gia thị trường
nhằm quản lý rủi ro ngoại hối và thường sử dụng các chương trình bảo
hiểm rủi ro ngoại hối có chọn lọc và trực tiếp tham gia kinh doanh ngoại
hối.Các quyết định kinh doanh ngoại hối của các công ty có thể ảnh hưởng
đáng kể trên thị trường ngoại hối trong cả ngắn hạn và dài hạn,nhưng trên
thực tế nó chưa được xem như một yếu tố ảnh hưởng thực thụ tới thị
trường.Ngoài ra các nhân cũng trở thành các nhân tố tác động tới thị
trường ngoại hối khi họ tiếp cận và sử dụng ngoại hối thông qua các cơ
chế khác nhau,kể cả thị trường tương lai và việc mua bán các trái phiếu và
cổ phiếu nước ngoài.
Một điều hiển nhiên cần phải thừa nhận rằng:các nhà kinh doanh chuyên
nghiệp,các công ty,các nhà quản lý quỹ,các ngân hàng và các các nhân
hoạt động trên thị trường ngoại hối kiếm tiền dực trên sự biến động tỷ
giá.Đối với các đối tượng này,thì thị trường biến động theo hướng nào
không quan trọng,các chính là họ cần thị trường phải biến động,bởi vì khi
tỷ giá biến động sẽ là cơ hội cho họ kiếm được tiền.
Lý do thứ hai khiến cho thị trường ngoại hối biến động mạnh là các luồng
di chuyển nhằm thanh toán sự mất cân đối trong cán cân thanh toán giữa
các quốc gia là rất lớn.Vốn tư bản ngày càng được chu chuyển tương đối
tự do giữa các đồng tiền chính nhằm cân đối trạng thái dư thừa và thiếu
hụt trong cán cân thương mại và cán cân dịch vụ,hơn nữa,các quỹ hưu trí
và các quỹ đầu tư khác ngày càng tăng đã tạo nên nguồn tài chính sẵn
sàng di chuyển đầu tư vào các đồng tiền khác nhau để tìm kiếm cơ hội lợi
nhuận.Hơn nữa các nhà đi vay tư nhân và xã hội cũng có xu hướng tìm
kiếm các nguồn vốn bằng các đồng tiền khác nhau nhằm làm cho chi phí đi
vay giảm xuống,do đó,các luồng vốn di chuyển từ đồng tiền này tới các
đồng tiền khác cũng ảnh hưởng đáng kể tới sự tác động tỷ giá.
Trong khi cả hai nhóm nhu cầu đầu tư và nhu cầu đi vay tăng lên,các thị
trường toàn cầu đã trải qua sự biến động mạnh về mức lãi suất,khi lãi suất
biến động làm tăng doanh số và mức độ thường xuyên chu chuyển các
luồng vốn.Do giá dầu hỏa và các hàng hóa khác tăng lên rất mạnh,áp lực
tăng lương,tăng tín dụng và tăng cung ứng tiền đã tạo áp lực lạm phát
trong những năm 1970,nhưng thái độ của NHTW trong việc chống lạm
phát là rất khác nhau,do vậy,mức độ lạm phát của mỗi đồng tiền là cũng
khác nhau.Vốn tư bản thường xuyên di chuyển tới đồng tiền nào có mức
lãi suất hấp dẫn,nghĩa là đồng tiền nào có mức dự tính lãi suất cao
nhất.Khi các luồng tiền chảy vào đồng tiền có lãi suất thực cao,làm cho
đồng tiền này lên giá rõ rệt.Một điều đáng chú ý là sự hấp dẫn về mức lãi
suất thực cao chỉ là tương đối và chỉ tồn tại trong một thời gian cố định,do
vậy khi lãi suất không còn hấp dẫn nữa sẽ làm cho luồng vốn chảy ra và
làm cho đồng tiền xuống giá nhanh chóng.
Một nhân tố liên quan góp phần làm cho thị trường ngoại hối biến động là
do người nước ngoài ngày càng giữ nhiều tài sản bằng đồng USD.Đồng
USD là đồng tiền được ưa chuộng nhất do vậy sự biến động của nó sẽ ảnh
hưởng tới sự biến động của các đồng tiền khác.Trong khi lượng tài sản
USD do người nước ngoài nắm giữ đã góp phần làm tăng tổng phương
tiện thanh toán quốc tế,nhưng đồng thời nó cũng góp phần làm tăng các
khối lượng chu chuyển vốn quốc tế khi xuất hiện các chênh lệch về lãi suất
giữa các đồng tiền và sự tồn tại mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc
tế.
1.1.3.Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của NHTM
1.1.3.1.Nghiệp vụ kinh doanh giao ngay
1.1.3.1.1.Khái niệm và vị trí của giao dịch giao ngay
Kinh doanh giao ngay được thống nhất trên thị trường quốc tế chỉ bao gồm
việc mua bán các đồng tiền khác nhau có trên tài khoản ngân hàng và các
bên mua bán tiến hành thanh toán ngay sau khi đã thỏa thuận.Khái niệm
giao ngay ở đây thường là ngày thứ hai làm việc kể từ ngày kí hợp
đồng.Đây là đặc trưng để phân biệt thị trường giao ngay với các thị trường
khác.
Tỷ giá giao ngay được xác định theo quy luật cung cầu trên thị trường
ngoại hối liên ngân hàng.Thị trường giao ngay được biết tới như là thị
trường rất sôi động,giao dịch với tốc độ cực lớn và tốc độ giao dịch nhanh
như tia chớp nhằm tận dụng những cơ hội chênh lệch tỷ giá dù là cực nhỏ.
Trên thị trường ngoại hối có tất cả 5 nghiệp vụ kinh doanh phổ biến đó
là:giao ngay,kì hạn,hoán đổi,tương lai,và quyền chọn,trong đó nghiệp vụ
giao ngay là nghiệp vụ gốc còn các nghiệp vụ khác là phái sinh,tức là bắt
nguồn từ nghiệp vụ giao ngay.Nghiệp vụ này được gọi là nghiệp vụ gốc do
tỷ giá áp dụng cho các hợp đồng giao ngay được hình thành trên cơ sở
quan hện cung cầu của thị trường.Trong khi đó 4 nghiệp vụ còn lại được
gọi là các nghiệp vụ phái sinh bởi vì tỷ giá được xác lập tại các nghiệp vụ
này không được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường
mà bắt nguồn từ tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền.
1.1.3.1.2.Tổ chức của thị trường
Theo nghĩa rộng,thị trường giao ngay bao gồm thị trường bán
buôn(INTERBANK) và thị trường bán lẻ,nhưng do doanh số giao dịch trên
INTERBANK là chủ yếu,do vậy,theo nghĩa hẹp,người ta coi thị trường giao
ngay chính là thị trường liên ngân hàng.
Thị trường liên ngân hàng giao ngay chính là thị trường tài chính lớn nhất
toàn cầu.Chỉ tính doanh số mua bán một chiều thì trung bình mỗi ngày
doanh số giao dịch lên tới 1000 tỷ USD.kể từ năm 1970 cho tới nay thì cứ
hai năm doanh số giao dịch lại tăng lên gấp đôi.Thị trường ngoại hối lớn
nhất là thị trường tại Anh,chiếm tới 27% doanh số giao dịch toàn cầu,tiếp
sau đó là thị trường ngoại hối các nước Mỹ,Nhật,Singapore.
Bảng 5.1:Phân bố doanh số giao dịch trung bình hàng ngày,4/1992.
Tên nước Doanh số giao dịch
(Tỷ US)
Tỷ lệ %
Anh
Mỹ
Nhật
Singapore
Thụy sỹ
Hong kong
Đức
Pháp
Úc
Các nước khác
300
192
126
76
68
61
57
36
30
185
27
17
11
7
6
5
5
3
3
16
Tổng cộng 1131 100
Nguồn: Centra Bank Survey of Foreign Exchange market Activity in April
1992,BIS,Basle,Switzeland,March 1993,p.14.
Thị trường ngoại hối giao ngay là thị trường phi tập trung(không giao dịch
trên sở giao dịch) bao gồm các NHTM,các công ty tài chính lớn,những nhà
môi giới ngoại hối và cả NHTW,trong đó các NHTM đóng vai trò chủ
chốt.Các thành viên liên hệ với nhau thông qua điện thoại,telex,mạng vi
tính và hệ thống SWIFT.Các ngân hàng và các nhà môi giới có mối liên hệ
khăng khít,hoạt động của họ tại một số trung tâm tài chính lớn chiếm hầu
như 24h/ngày nhằm bắt kịp mọi diễn biến của thị trường ngoại hối toàn
cầu.
Do tốc độ thông tin ngày nay rất nhanh,cho nên sự kiện quan trọng diễn ra
trên thế giới có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức đến thị trường ngoại
hối toàn cầu cho dù nhà kinh doanh ở rất xa nhau.Điều này đã làm cho thị
trường ngoại hối hoạt động trở nên hiệu quả,giống như toàn bộ các nhà
kinh doanh đang hoạt động dưới một mái nhà chung.
Tính hiệu quả của thị trường giao ngay được thể hiện ở chỗ:
-Thứ nhất:chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán(spread) là rất
hẹp,thông thường là nhỏ hơn 0.1% (trong khi đó spread trong giao dịch
tiền mặt là 5% đến 6%)
-Thứ hai:do tốc độ truyền tin nhanh,do vậy các thay đổi của thị trường đã
ảnh hưởng tức thời lên tỷ giá,hay nói cách khác,tỷ giá hối đoái luôn biến
động để phản ánh những thay đổi của thị trường.
-Thứ ba:đây là thị trường có tính thanh khoản rất cao,vì:
.luôn sẵn có số tiền cần thiết(the right amount is available)
.Tại địa điểm cần có(at the right location)
.Tại thời điểm có nhu cầu(at the right time)
.Bằng đồng tiền cần có(in right currency)
.Với giá cả hợp lý(at the right price)
1.1.3.2.Nghiệp vụ kinh doanh kì hạn
1.1.3.2.1.Khái niệm và các vấn đề cơ bản
Trong thực tế kinh doanh ngoại hối,ngày giá trị của giao dịch ngoại hối có
thể là bất cứ khi nào kể từ ngày kí kết hợp đồng cho đến vài năm trong
tương lai.Ví dụ,đó có thể là ngày giá trị hôm nay(today valued date),ngày
mai(tomorrow valued date),ngày kia(spot valued date).hay kì hạn(forward
valued date).Trong đó ngày giá trị giao ngay là ngày quan trọng nhất,nó
được xem như ngày mốc để xác định các ngày giá trị khác.Căn cứ vào
mốc là ngày giá trị giao ngay,ta định nghĩa:Những giao dịch ngoại hối có
ngày giá trị xa hơn ngày giá trị giao ngay gọi là giao dịch ngoại hối kì
hạn(forward transactions).
Tỷ giá áp dụng trong giao dịch kì hạn được gọi là tỷ giá kì hạn:Tỷ giá kì
hạn là tỷ giá được thỏa thuận ngay từ ngày hôm nay để làm cơ sở cho việc
trao đổi tiền tệ tại một ngày xác định xa hơn ngày giá trị giao ngay.Nếu gọi
S là tỷ giá giao ngay,F là tỷ giá kỳ hạn và P là điểm kỳ hạn thì ta có thể
viết:
F=S+P -> P=F-S
Như vậy,tỷ giá kỳ hạn bao gồm hai thành phần là:(i) tỷ giá giao ngay; (ii)
điểm kỳ hạn.Do đó:điểm kỳ hạn là chênh lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá
giao ngay.
Hợp đồng kỳ hạn là một công cụ tài chính để mua hoặc để bán một số tiền
nhất định,tại một tỷ giá nhất định,tại một thời điểm xác định trong tương
lai.Các hợp đồng kỳ hạn được giao kết và giao dịch giữa các ngân hàng và
khách hàng,hay giữa các ngân hàng với nhau.Giao dịch kỳ hạn không diễn
ra trên sở giao dịch mà giống như giao dịch giao ngay,đây là thị trường phi
tập trung của ngân hàng và các nhà môi giới được liên kết với nhau bằng
điện thoại,telex,fax,hệ thống SWIFT.Bộ phận liên ngân hàng của thị trường
hoạt động liên tục thông qua việc đấu giá mở hai chiều giữa các thành viên
tham gia,nghĩa là mỗi ngân hàng yết tỷ giá kỳ hạn mua vào và bán ra liên
tục cho các ngân hàng khác,và ngược lại,những nhà môi giới đóng vai trò
tương tự như trên thị trường giao ngay,đó là đối chiếu các lệnh đặt mua và
các lệnh đặt bán giữa các ngân hàng nhằm đưa ra “giá tay trong”tốt nhất
cho các khách hàng.
1.1.3.2.2.Phương pháp xác định tỷ giá kỳ hạn
1.1.3.2.2.1.Công thức tổng quát xác định tỷ giá kỳ hạn
Chúng ta kí hiệu:
PV=giá trị hiện tại(Present Value)
FV=giá trị kì hạn(Forward Value)
PV
T
=giá trị hiện tại của đồng tiền định giá
(Present Value of Terms Currency)
PV
C
=giá trị hiện tại của đồng tiền yết giá
(Present Value of Commodity Currency)
FV
T
=giá trị kì hạn của đồng tiền định giá
(Forward Value of Terms Currency)
FV
c
=giá trị kì hạn của đồng tiền yết giá
(Forward Value of Commodity Currency)
R
T
=mức lãi suất/năm của đồng tiền định giá
R
c
=mức lãi suất/năm của đồng tiền yết giá
t=thời hạn hợp đồng,tính theo năm
Giả sử tỷ lệ trao đổi giao ngay giữa đồng tiền định giá và đồng tiền yết giá
là :
PV
c
=PV
T
Chúng ta định nghĩa:Tỷ giá giao ngay là tỷ số giữa giá trị hiện tại của đồng
tiền định giá chia cho giá trị hiện tại của đồng tiền yết giá,ta có:
S=
Giả sử tỷ lệ trao đổi kỳ hạn(tại một thời điểm nhất định trong tương lai)giữa
đồn tiền định giá và đồng tiền yết giá là:
FV
c
=FV
T
Chúng ta định nghĩa:Tỷ giá kỳ hạn là tỷ số giữa giá trị kỳ hạn của đồn tiền
định giá chia cho giá trị kỳ hạn của đồng tiền yết giá,ta có:
F=
Áp dụng công thức giá trị thời gian của tiền tệ ta có:
FV
T
=PV
T
(1+R
T
.t)
FV
c
=PV
c
(1+R
c
.t)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét