mục tiêu nghiên cứu
1. Mục tiêu chung
Mô tả thực trạng và một số yếu tố ảnh hởng tới sử dụng YHCT của ngời
dân tỉnh Hà Tây năm 2006. Trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị phù hợp
để phát triển hơn nữa việc sử dụng YHCT của ngời dân tại địa phơng.
2. Mục tiêu cụ thể
2.1. Mô tả thực trạng sử dụng y học cổ truyền của ngời dân tỉnh Hà Tây.
2.2. Xác định một số yếu tố ảnh hởng đến việc sử dụng y học cổ truyền của
ngời dân tỉnh Hà Tây.
5
Chơng 1
Tổng quan
1.1. Y học cổ truyền trong CSSK nhân dân ở một số nớc trên
thế giới
Y học cổ truyền, y học bản địa có thể nói đó là nền y học đợc khai sinh
đồng thời với sự xuất hiện của loài ngời trên trái đất. Mặc dù có những thăng
trầm theo lịch sử phát triển của nền kinh tế, văn hóa, y tế của mỗi quốc gia nhng
những đóng góp to lớn của nền y học này đối với sức khỏe nhân loại ngày càng
đợc thừa nhận.[34] Tổ chức Y tế thế giới đã nhận định về lợi ích của YHCT
trong CSSK nhân dân Không cần phải chứng minh lợi ích của YHCT mà cần
phải đề cao và khai thác rộng rãi hơn nữa những khả năng của nó có lợi cho
nhân loại, phải đánh giá và công nhận theo đúng giá trị của nó và làm nó hữu
hiệu hơn, chắc chắn hơn và rẻ hơn để sử dụng nhiều hơn ( ).[39] Năm 1999
Hội nghị quốc tế về YHCT đợc tổ chức tại Senegan đã đa ra tuyên bố về sự
khẩn cấp bảo vệ YHCT ở các quốc gia trên thế giới. Hội nghị khuyến cáo tất cả
các cơ sở y tế địa phơng của các quốc gia cần thiết lập lại các dịch vụ YHCT
bên cạnh các dịch vụ YHHĐ trong CSSK ban đầu cho nhân dân.[59] Cũng
chính từ những lý do trên, ngày 16/5/2002 Tổ chức Y tế thế giới đã đa ra chiến
lợc toàn cầu phát triển YHCT năm 2002 2005, tiếp tục khẳng định vai trò và
giá trị của YHCT trong CSSK ban đầu cho nhân dân, với mục tiêu làm cho
YHCT đợc phổ cập, nhất là đối với ngời nghèo.[71] Một trong những công việc
mà tổ chức này muốn mục tiêu đó đợc trở thành hiện thực đó là việc mở các
khoá đào tạo cho các lơng y ở Lào, Mông Cổ, Philipin và các quốc đảo Tây
Thái Bình Dơng nhằm sử dụng những lơng y đã đợc đào tạo nh là ngời giáo dục
sức khỏe hoặc cung cấp dịch vụ CSSK ban đầu. Mặt khác nhằm nâng cao năng
lực nghiên cứu về YHCT cho các nớc về YHCT bằng cách thông qua việc tổ
chức hội thảo khu vực, các khoá đào tạo và những học bổng đào tạo chuyên gia
6
về lĩnh vực này.[65, 69] Đây chính là những tác động tích cực từ phía nhà quản
lý, ngời cung cấp dịch vụ còn đối tợng sử dụng dịch vụ đó chính là ngời dân, họ
đã sử dụng YHCT trong CSSK nh là một phơng pháp không thể thiếu trong đời
sống hàng ngày. Một nghiên cứu cho biết đã có 80 85% dân số của châu Phi
đợc giáo dục và CSSK từ những ngời cung cấp dịch vụ YHCT.[71] Phụ nữ Chile
đánh giá cao vai trò của thuốc YHCT, họ không những chọn dịch vụ YHCT của
nớc bản địa để CSSK sinh sản cho mình mà còn đến với các thầy thuốc YHCT
Trung Quốc.[60] Theo nhóm tác giả nghiên cứu ở Israel cho thấy, những ngời
dân di c Yêmen trên sáu mơi tuổi thờng xuyên sử dụng phơng pháp chữa bệnh
bằng YHCT (2/3 trờng hợp) và 1/3 trờng hợp biết điều trị bằng YHCT.[61]
Trung Quốc là một trong những trung tâm lớn về YHCT của thế giới, nền
YHCT của Trung Quốc có ảnh hởng sâu sắc tới nền YHCT của nhiều quốc gia
khác nh: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, ấn Độ, Singapo, Malaisia và
Inđonesia. Tuy nhiên, ở mỗi một quốc gia thì YHCT lại có những sắc thái khác
nhau. Đây cũng chính là yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa của riêng các quốc gia
ở Châu á.
Tại Trung Quốc, việc sử dụng YHCT trong CSSK nhân dân là rất phổ
biến và sâu rộng. Tính đến năm 1995 Trung Quốc đã có 2.522 bệnh viện YHCT
với 353.373 nhân viên y tế và 236.060 giờng bệnh. Mỗi năm những bệnh viện
này đã điều trị cho khoảng 200 triệu bệnh nhân ngoại trú và 3 triệu bệnh nhân
nội trú. Mặt khác, có tới 95% các bệnh viện ở Trung Quốc có khoa YHCT. [69]
Đồng hành với hệ thống bệnh viện YHCT, Trung Quốc không những trú trọng
đến việc phát triển khoa học công nghệ về YHCT, xây dựng hệ thống hành lang
pháp lý, Trung Quốc còn đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực đào tạo cán bộ y tế.
Đơn cử về một trờng đại học Trung y dợc Quảng Châu Trung Quốc, theo Giáo
s Phùng Tấn Thông cho biết: Trờng đợc thành lập từ năm 1924. Tính đến năm
2004, trờng có 13 học viện, 11 trung tâm nghiên cứu. Riêng về công tác điều trị
bệnh cho nhân dân, trờng có bốn bệnh viện phụ thuộc trực tiếp, với tổng số gi-
7
ờng bệnh là 2.965 giờng; Bên cạnh đó, trờng đã không ngừng nâng cao chất l-
ợng đào tạo và đã hợp tác với hơn 79 quốc gia về công tác đào tạo cán bộ có
trình độ cao về YHCT. [64]
Tại Hội nghị phát triển YHCT Trung Quốc năm 2005 cho biết nền YHCT
Trung Quốc đã đợc hơn 120 quốc gia và khu vực trên thế giới chấp nhận. ở
Anh, hơn 3000 bệnh viện thực hành về YHCT Trung Quốc đã đợc mở, hàng
năm khoảng 2,5 triệu ngời Anh điều trị bệnh bằng YHCT Trung Quốc. ở Pháp
có 2.600 các bệnh viện thực hành về YHCT Trung Quốc với hơn 7.000 cán bộ
châm cứu. Năm 2004, tổng giá trị sản lợng công nghiệp thuốc cổ truyền chiếm
26% toàn bộ sản lợng dợc phẩm Trung Quốc (11,1 tỷ USD).[2]
Một trong những chủ trơng chính của Trung Quốc hiện nay là việc kết
hợp YHCT với YHHĐ. Trong đó các thầy thuốc YHHĐ đợc đào tạo thêm về
YHCT, các thầy lang cổ truyền đợc đào tạo thêm về YHHĐ, họ đợc tham gia
các chơng trình y tế của Nhà nớc và đợc công nhận một cách chính thức.[64]
YHCT của Trung Quốc đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển khoa học y
học trên thế giới.
Thái Lan vốn là một nớc có nền YHCT phát triển nhng nền y học này
từng có giai đoạn gần nh bị tê liệt hoàn toàn bởi sự lấn át của y học phơng Tây.
Điều đó làm ảnh hởng không ít đến việc CSSK cho nhân dân. Nhận thấy vấn đề
đó, Chính phủ Thái Lan đã có những biện pháp nhằm khôi phục lại thế mạnh
vốn có của YHCT nh khẩn trơng thiết lập chính sách phát triển thảo mộc trên
phạm vi toàn quốc; thành lập các trung tâm YHCT tại các tỉnh; tiến hành nghiên
cứu dợc học, điều tra về dợc liệu.[63]
Nền YHCT của Nhật Bản có lịch sử trên 1.400 năm, đây cũng là quốc gia
đợc xem là có tỷ lệ ngời sử dụng YHCT cao nhất trên thế giới hiện nay. Nhật
Bản gọi thuốc cổ truyền là Kampo đó là sự kết hợp giữa thuốc cổ truyền Trung
Quốc và thuốc dân gian. ở Nhật Bản việc sử dụng các loại thuốc YHCT trong
điều trị bệnh đã tăng 15 lần trong khi các loại tân dợc chỉ tăng 2,6 lần trong
8
khoảng 15 năm (từ năm 1974 đến 1989) và có ít nhất 65% bác sĩ ở Nhật Bản đã
khẳng định rằng họ đã sử dụng phối hợp đồng thời thuốc YHCT và thuốc
YHHĐ.[62] [66]
1.2. Y học cổ truyền trong CSSK nhân dân ở Việt Nam
Cũng nh nhiều dân tộc khác trên thế giới, Việt Nam là một quốc gia có
nền y tế mang bản sắc dân tộc chính là nhờ sự duy trì và phát triển vốn quý của
YHCT. Mặt khác, đây còn là một quốc gia đợc biết đến bởi sự đa dạng của
nguồn tài nguyên cây thuốc phong phú, đứng thứ 16 trong tổng số 25 quốc gia
có sự đa dạng về sinh học. Trong tổng số 10.386 loài thực vật thì có tới 3.830
loài có khả năng sử dụng làm thuốc chữa bệnh. Mặt khác, trong tổng số 5.577
loại thuốc đang sản xuất kinh doanh ở Việt Nam thì có 1340 loại thuốc YHCT
(24%) trong đó có 1296 loại (96,56%) sản xuất từ cây thuốc và 46 loại (3.44%)
nguyên liệu từ động vật.[18]
Qua đó ta càng thấy rõ đợc vai trò to lớn của
YDHCT trong công cuộc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân của ngành
y tế nớc ta.
Theo Giáo s, tiến sỹ Trần Công Khánh
(1)
"Trong hệ thống y tế Việt Nam,
bên cạnh Tây y, Đông y (YHCT) cũng có vai trò rất quan trọng trong việc
CSSKCĐ. Đông y có hai bộ phận cấu thành đó là YHCT chính thống có nguồn
gốc từ Trung Quốc trớc đây và Y học gia truyền bản địa của ngời Việt và các
dân tộc thiểu số. ở từng thời kỳ lịch sử khác nhau, YHCT Việt Nam cũng có
những biến đổi đáng kể, thậm chí có những giai đoạn bị kìm hãm và chèn
ép"[36]. Để có thể hình dung một cách dễ dàng, chúng ta sơ lợc về lịch sử
YHCT Việt Nam ở hai giai đoạn.
1.2.1. Y học cổ truyền Việt Nam giai đoạn trớc Cách mạng tháng 8 năm 1945
Cùng với lịch sử hình thành và phát triển đất nớc ta, nền YHCT Việt Nam
đã sớm ra đời và đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân. Điều này đợc chứng minh qua các giai đoạn khác nhau của lịch
1
Đại học Dợc Hà Nội
9
sử nớc nhà. Ngay từ thời các Vua Hùng dựng nớc (2900 năm trớc công nguyên)
nhân dân ta đã biết sử dụng các phơng pháp để bảo vệ và giúp cơ thể khỏe
mạnh. Đó là phơng thức nhuộm răng, ăn trầu không để bảo vệ răng miệng hay
dùng gừng, ớt không chỉ là gia vị ăn mà còn là một vị thuốc hữu hiệu trong việc
trị các chứng bệnh thông thờng.
Thời kỳ Bắc thuộc, những kiến thức về YDCT của nhân dân ta dần thêm
ảnh hởng của nho giáo và triết học phơng đông, đặc biệt có sự giao lu của nền y
học truyền thống của Trung Quốc do đó YDCT Việt Nam không ngừng phát
triển hơn không chỉ về học thuật mà còn đúc kết thành lý luận.
Dới các vơng triều Lý - Trần - Lê - Nguyễn, YHCT là một nền y học duy
nhất của nhà nớc phong kiến chăm lo sức khỏe cho nhân dân.[41] Cụ thể nh
thành lập Viện thái y chăm lo sức khỏe cho vua và quan lại triều đình, các ty
thái y để chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Nhà nớc phong kiến đã ban hành quy
chế hành nghề, quy chế pháp y đồng thời nhà Vua đã ban cho các quan thái y,
ngự y mở các lớp giảng dạy kiến thức về y học, tổ chức thi tuyển lơng y, biên
soạn sách y học và lập y miếu Thăng Long (1774). Trong giai đoạn này đã xuất
hiện nhiều danh y nổi tiếng, các ông đã để lại cho chúng ta những tác phẩm quý
giá về YDHCT ở tất cả các chuyên khoa nh nội nhi, ngoại thơng, sản phụ, ngũ
quan, thuốc nam, châm cứu, bấm huyệt, vệ sinh phòng bệnh, bào chế, dinh d-
ỡng. Điển hình là đại danh y thiền s Tuệ Tĩnh (thế kỉ XIV) ông đợc nhân dân
suy tôn là "Thánh thuốc nam". Vào thời kỳ mà đa số các nớc Đông Nam á đều
chịu ảnh hởng sâu sắc của y dợc Trung Quốc thì Tuệ Tĩnh đa ra quan điểm
"Nam dợc trị Nam nhân". Đây là một quan điểm vừa mang tính khoa học, tính
nhân văn, vừa thể hiện đợc ý chí độc lập, tự chủ và tiềm năng trí tuệ của ngời
Việt Nam trong phòng bệnh và chữa bệnh. Để cho dân dễ hiểu, dễ nhớ các ph-
ơng pháp chữa bệnh bằng thuốc nam, Tuệ Tĩnh đã soạn sách bằng thơ phú để
truyền bá về YHCT. Ông đa ra một bản thảo bằng thơ Đờng gồm 500 vị thuốc
nam, bài thơ phú thuốc nam gồm 630 vị viết bằng Quốc âm. Trong cuốn sách
10
"Nam dợc thần hiệu" có 400 vị thuốc ghi bằng chữ hán, 82 vị có tên Việt
Nam nhằm phổ biến kinh nghiệm sử dụng thuốc nam trong việc phòng và
chữa bệnh cho nhân dân.[52] Nếu Tuệ Tĩnh đợc nhân dân suy tôn là Thánh
thuốc nam thì có thể xem Lê Hữu Trác (1724-1791) là nhà bác học đầu tiên
của nền YHCT của nớc ta, ông đã để lại cho chúng ta bộ sách đợc coi là bách
khoa toàn th về YHCT Việt Nam đó là bộ sách "Hải Thợng Y Tông Tâm Lĩnh"
gồm 28 tập 66 quyển (nay biên tập thành 4 tập). ông không những giỏi về chữa
bệnh mà còn rất chú trọng đến vệ sinh phòng bệnh nh cuốn Vệ sinh yếu quyết
đã chỉ dẫn cụ thể cách giữ vệ sinh theo hoàn cảnh sinh hoạt của nhân dân ta,
cách tu dỡng tinh thần và rèn luyện thân thể để tăng sức khỏe, tăng tuổi thọ là
một minh chứng. Về dợc học, ông thừa kế Nam dợc thần hiệu của Tuệ Tĩnh
đồng thời bổ sung 300 vị thuốc trong tập Lĩnh nam bản thảo, gần 2000 phơng
thuốc gia truyền kinh nghiệm vào các tập Bách gia Trân tàng, Hành giả trân
nhu. Ông đã đúc kết đợc nhiều qui tắc chẩn đoán, biện chứng, luận trị, cách
dùng thuốc chữa bệnh và đạo đức ngời thầy thuốc.
Dới chế độ thực dân Pháp đô hộ gần 100 năm (1858 - 1945), nền
YDHCT Việt Nam bị loại khỏi vị trí nhà nớc "Ngời Pháp đã bãi bỏ Thái y viện,
các ty lơng y ở các tỉnh, hạn chế ngời làm YHCT".[43] Song nó vẫn tồn tại và
đóng vai trò to lớn trong việc CSSK chính là nhờ thế mạnh về sử dụng thuốc
nam của nhân dân ta.
1.2.2. y học cổ truyền Việt Nam giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945
đến nay
Cách mạng tháng tám thành công, dới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng
một nớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực YHCT, Hồ Chí Minh chủ
trơng kế thừa những kinh nghiệm quý báu của y dợc cổ truyền dân tộc, đồng
thời nghiên cứu kết hợp với y dợc hiện đại để xây dựng một nền y học của ta.
Trong th gửi cho Hội nghị ngành y tế ngày 27/2/1955 Ngời viết Trong những
11
năm bị nô lệ thì y học của chúng ta cũng nh các ngành khác bị kìm hãm. Nay
chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp chính phủ xây dựng
một nên y tế thích hợp với nhu cầu chữa bệnh của nhân dân ta. Y học cũng phải
dựa trên nguyên tắc khoa học đại chúng. Mặt khác, Bác còn chỉ rõ: Ông cha
ta ngày trớc có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta
thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú cũng nên chú trọng
nghiên cứu phối hợp thuốc đông y và thuốc tây.
T tởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh đã đợc các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà
nớc và ngành y tế quán triệt. Đảng và Nhà nớc ta đã vạch đờng lối nhất quán là:
"Kế thừa, phát huy, phát triển YDHCT, kết hợp YDHCT với y dợc hiện đại xây
dựng nền y học Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc và đại chúng".[14]
Tính đến năm 1978 đã có 33/34 tỉnh, thành phố có bệnh viện YHCT, hầu
hết các cơ sở y tế đều có sự kết hợp giữa YHCT với YHHĐ trong phòng và chữa
bệnh. Phong trào trồng và sử dụng thuốc nam chữa bệnh phát triển mạnh mẽ.
Đến giữa những năm 80 đã có trên 7000 xã, phờng có sử dụng thuốc nam trong
điều trị bệnh (chiếm 80%); nhiều xã, phờng có 70% - 80% số gia đình có
khóm thuốc gia đình; hàng ngàn cán bộ y tế đợc học và bồi dỡng những kiến
thức sử dụng thuốc nam và châm cứu. Trong thời kỳ này, thuốc nam và châm
cứu đã góp phần không nhỏ trong việc CSSK cho nhân dân tại cộng đồng.
[14,15]
Từ sau cuối thập kỷ 80 đến nay, đất nớc ta thực hiện công cuộc đổi mới,
mô hình sử dụng thuốc nam và châm cứu đã bị thay đổi nhanh chóng do tác
động của nền kinh tế thị trờng. Hàng loạt các cơ sở thuốc nam và châm cứu ở
trạm y tế xã, phờng không hoạt động, nhiều lơng y ra khỏi các trạm y tế, chỉ
còn khoảng 10-12% số trạm y tế xã, phờng còn hoạt động YHCT, nguồn thuốc
YHCT và hoạt động bào chế YHCT cung cấp cho cộng đồng trong CSSK nhân
dân cũng giảm sút. Cán bộ đợc đào tạo YHCT ít muốn trở về y tế cơ sở để phục
vụ.[49] Những biến động này đã ảnh hởng không nhỏ đến chất lợng CSSKBĐ
12
cho nhân dân cũng nh việc thực hiện các mục tiêu của chơng trình CSSK cộng
đồng.
Trớc tình hình đó, một loạt chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và các văn bản
hớng dẫn nhằm khôi phục và đẩy mạnh hơn nữa việc sử dụng YHCT trong
CSSK nhân dân cụ thể nh:
Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 23/02/2005 về công tác
bảo vệ, nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới nêu rõ Đẩy mạnh việc
nghiên cứu, kế thừa, bảo tồn và phát triển YDHCT thành một chuyên ngành
khoa học;
Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá VII về Những
vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong
Nghị quyết cũng chỉ rõ "Triển khai mạnh mẽ việc nghiên cứu ứng dụng và hiện
đại hoá YHCT với y học hiện đại. Khẩn trơng đào tạo đội ngũ cán bộ và cán bộ
đầu đàn y học dân tộc. Tăng cờng đầu t và nâng cấp các cơ sở y học dân tộc";
Chỉ thị 06 ngày 22/1/2002 của Ban bí th Trung ơng Đảng về việc củng cố
và hoàn thiện mạng lới y tế cơ sở trong đó đề cập đến việc sử dụng y học dân
tộc trong CSSK ban đầu. Điều 26 của Luật Di sản văn hoá về việc bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hoá của YDHCT;
Quyết định số 222/2003/QĐ - TTg của Thủ tớng Chính phủ về việc phê
duyệt Chính sách quốc gia về YDCT đến năm 2010 trong đó nêu rõ "Ban hành
chính sách u đãi, bảo trợ việc nuôi trồng dợc liệu, sản xuất thuốc YHCT và
chính sách khai thác dợc liệu tự nhiên hợp lý bảo đảm lu giữ, tái sinh và phát
triển nguồn gen dợc liệu; thành lập giải thởng Hải Thợng Lãn Ông để khuyến
khích các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp trong lĩnh vực YDHCT".
Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg, ngày 30/6/2006 của Thủ tớng Chính
phủ về Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai
đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó đã đợc ghi rõ ( )
80% trạm y tế xã có cán bộ làm công tác YDHCT.
13
Nhằm thực hiện đờng lối chỉ đạo của Đảng và Chính phủ trong báo cáo
"Đánh giá công tác CSSK và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, đặc
biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VII đến nay "của Bộ Y tế đã nêu rõ Đảm
bảo công bằng về CSSK cho nhân dân và giữ đợc bản chất nhân đạo của ngành
y tế trong điều kiện kinh tế thị trờng là một vấn đề cấp bách, vừa là chính sách
lâu dài". Bộ Y tế khẳng định: "Phát triển sử dụng thuốc nam và các phơng pháp
chữa bệnh không dùng thuốc của YHCT tại cơ sở y tế và cộng đồng vẫn là mục
tiêu chiến lợc của ngành y tế trong những thập kỉ tới để bảo vệ sức khỏe cho
nhân dân tại cộng đồng".[55] Đồng thời, Bộ Y tế đã có nhiều Chỉ thị, Thông t và
các văn bản chỉ đạo về công tác phát triển màng lới YDHCT. Cho đến nay, tính
đến tháng 12 năm 2005 cả nớc đã có 54 Viện, Bệnh viện YHCT trong đó có 2
Bệnh viện đầu ngành (Viện YHCT Việt Nam và Bệnh viện Châm cứu Trung -
ơng), 2 bệnh viện ngành (Quân đội, Công an) và 50 bệnh viện YHCT tỉnh,
thành phố, 62/64 Bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố có khoa YHCT, và trên
50% các Bệnh viện đa khoa khu vực và các bệnh viện đa khoa huyện, thị có
khoa hoặc bộ phận YHCT lồng ghép.[54] Đối với tuyến xã, phờng đã có 42/64
tỉnh, thành đã thực sự triển khai xây dựng xã điểm tiên tiến và chuẩn Quốc gia
về YHCT, trong đó có 625 số xã đạt chuẩn Quốc gia và 227 xã đạt tiêu chuẩn xã
tiên tiến về YHCT. Tuy nhiên con số này chỉ chiếm tỷ lệ 5,7% (625/11.000 xã,
phờng). [12]
Gần đây nhất, theo tinh thần Nghị quyết số 46/NQ - TW ngày 23/2/2005
của Bộ Chính trị về công tác y tế trong tình hình mới đó là phát triển YHCT
thành một ngành khoa học. Do vậy, để kỷ niệm 115 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh (19/5/2005), Bộ Y tế đã công bố quyết định số 30/2005/QĐ - TTg của
Thủ tớng chính phủ ký ngày 2/2/2005 về việc thành lập Học viện YDHCT Việt
Nam, tiếp đó là sự ra đời của Bệnh viện Tuệ Tĩnh và Viện nghiên cứu YDHCT,
đánh dấu một bớc ngoặt lớn trong lịch sử nền YHCT Việt Nam.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét