Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng nền kinh tế Việt Nam

Mục lục
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài.
1. Nguyên tắc phơng pháp luận của qui luật lợng- chất.
2. Nguyên tắc phơng pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- kết quả.
II- Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền
kinh tế Việt Nam trớc xu thế toàn cầu hoá.
III- Những giải pháp và kiến nghị.
- Phần kết luận

Lời mở đầu
Kinh tế là ngành không thể thiếu đợc của mọi quốc gia trên thế giới. Chính vì
thế, nó chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nớc của mỗi quốc gia.
Không chỉ có vậy, lĩnh vực kinh tế còn ảnh hởng đến mọi mặt của đời sống xã hội
nh: chính trị, văn hoá, môi trờng Do có vai trò quan trọng nh vậy nên mỗi một
thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành kinh tế đều ảnh hởng đến sự phát triển chung
của một quốc gia.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đang là một đề tài thu hút nhiều sự chú ý và gần
đây hiệp định thơng mại Việt - Mỹ đã đợc thông qua tạo thêm nhiều cơ hội cho
sự phát triển kinh tế ở nớc ta nhng đồng thời đây cũng là một thách thức lớn đối
với nền kinh tế còn đang trong giai đoạn phát triển nh nớc ta ,vì hiện nay có thể
nói công nghệ và kỹ thuật của ta còn đi chậm hơn so với thế giới và chúng ta buộc
phải có những đổi mới trong cung cách sản xuất, quản lý , đầu t đúng hớng
Bài tiểu luận này đã giúp em học hỏi đợc rất nhiều trong việc rèn luyện cách
viết, cách diễn giải một vấn đề và trau dồi khả năng t duy. Song do đây là bài tiểu
luận đầu tiên cho nên không thể tránh khỏi những sai sót về nội dung cũng nh hình
thức. Kính mong các thầy cô giáo sửa chữa và góp ý để tiểu luận có thể hoàn thiện
hơn.

Em xin chân thành cám ơn !


Phần nội dung
I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài
1 - Q uy luật lợng- chất
Muốn hiểu thấu đáo qui luật lợng- chất thì trớc hết phải tìm hiểu xem thế nào là
lợng, thế nào là chất. Trong giáo trình triết học Mác- Lênin, khái niệm về chất và
lợng đợc dịnh nghiã nh sau: chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui
định khách quan vốn có của sự vật và hiện tợng, là sự thống nhất hữu cơ của các
thuộc tính làm cho nó là nó chứ không phải cái khác. Cònlợng là một phạm trù
triết học để chỉ tính qui định vốn có của sự vật biểu thị số lợng, qui mô,trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng nh của các thuộc tính của
nó.
Bất kì sự vật, hiện tợng nào cũng có chất và lợng. Trong quá trình vận động và
phát triển, chất và lợng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lợng và của chất
không diễn ra độc lập với nhau. Trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nh-
ng không phải bất kì sự thay đổi nào của lợng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn
bản chất của sự vật. Lợng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định
mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Vợt qua giới hạn đó sẽ làm cho
vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lợng cha làm thay đổi về chất của sự vật
đợc gọi là độ. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lợng
và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lợng cha làm thay đổi
căn bản về chất của sự vật .
Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lợng sẽ làm thay đổi chất của sự
vật đợc gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về lợng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự thống
nhất giữa lợng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Vì vậy, có thể
hình dung sự phát triển dới dạng một đờng nút của những quan hệ về độ.
Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lợng trớc đó gây ra gọi là bớc nhảy.
Nói cách khác, bớc nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển
hoá về chất của sự vật do những thay đổi về chất trớc đó gây ra.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lợng khi đạt tới điểm nút. Sau
khi ra đời, chất mới có thể tác động trở lại sự thay đổi của lợng. Chất mới có thể
làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và
phát triển của sự vật đó.
Bởi vì chất và lợng là hai mạt đối lập vốn có trong lòng sự vật hiện tợng. Chất thì
tơng đối ổn định còn lợng thì thờng xuyên biến đổi. Sự thay đổi của lợng đến một
lúc nào đó thì đối lập với chất cũ, bị chất cũ kìm hãm, nó đòi hỏi phải phá bỏ độ
cũ mở ra một độ mới để mở đờng cho lợng thay đổi. Khi chất cũ bị phá bỏ, chất
mới đợc thiết lập lại tạo ra sự thống nhất giữa chất và lợng.
Quy luật lợng chất đợc phát biểu nh sau: Bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất
giữa chất và lợng, sự thay đổi dần dần về lợng vợt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới
thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bớc nhảy; chất mới ra đời sẽ tác
động trở lại sự thay đổi của lợng.
Xuất phát từ những điều trên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
đòi hỏi phải quan tâm đến quá trình tích luỹ về lợng bởi vì không có quá trình này
thì không có sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũng không thể mất đi, cái mới
tiến bộ hơn không thể ra đời thay thế.
Khi chất mới ra đời thì phải biết xác định quy mô tốc độ phát triển mới về lợng
cho phù hợp, không đợc thoả mãn dừng lại.
Phải chống lại quan điểm tả khuynh và hữu khuynh. Tả khuynh là quan điểm
coi thờng tích luỹ về lợng. Còn hữu khuynh là khi lợng thay đổi đã chín muồi cần
phải có sự thay đổi về chất lại không dám thực hiện bớc thay đôỉ về chất. Cả hai
quan điểm đó đều là quan điểm sai lầm.
2. Nguyên tắc phơng pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- Kết quả.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Do đó, nguyên nhân bao giờ cũng có trớc kết
quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện Song
không phải mọi sự việc nối tiếp trong thời gian của các hiện tợng đều là biều hiện
của mối quan hệ nhân quả.
Trong hiện thực mối liên hệ nhân- quả biểu hiện rất phức tạp. Một kết quả thông
thờng không phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sản sinh ra
nhiều kết quả. Khi các nguyên nhân tác động cùng chiều, cùng hớng, cùng một
lúc lên sự vật thì chúng sẽ gây lên ảnh hởng cùng chiều tới sự hình thành kết quả
và ngợc lại.
Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động vật chất, không có hiện tợng nào
đợc coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả nào đợc xem là kết quả
cuối cùng. Trong mối quan hệ này, sự vật nào đó đợc coi là nguyên nhân thì trong
sự việc khác, nó lại đợc coi là kết quả và ngợc lại.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ
vai trò thụ động đối với nguyên nhân. Trái lại, nó tác động lại nguyên nhân theo
hai chiều hớng hoặc tích cực hoặc tiêu cực.
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan. Không có sự vật hiện tợng nào tồn
tại mà không có nguyên nhân. Do đó, nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải
khám phá ra nguyên nhân. Bởi vì có biết nguyên nhân, chúng ta mới có thể định h-
ớng cho sự phát triển tiếp sau.
Một sự vật hiện tợng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mỗi nguyên nhân có
vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy, ta cần phải phân loại các
nguyên nhân đồng thời phải nắm đợc những nguyên nhân phát triển cùng chiều để
tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân ngợc chiều.
Nguyên nhân sinh ra kết quả nhng sau khi kết quả xuất hiện thì nó lại tác động
trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Vì vậy, phải biết khai thác tận dụng các kết quả đã
đạt đợc để nâng cao nhận thức để thúc đẩy sự vật phát triển.
II- Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền
kinh tế Việt Nam trớc xu thế toàn cầu hoá.
Trên thế giới có rất nhiều tài liệu viết về khái niệm hội nhập kinh tế Quốc tế.
Giáo s về kinh tế học quốc tế thuộc đại học Tổng hợp Giôn Hốp- kin, Oa- sinh-
tơn D.C, Giêm Ri- đen đã định nghĩa: Hội nhập là tự do thơng mại, không phải
chỉ đơn giản là bản thân thơng mại. Về mặt lý luận, các vấn đề kinh tế không chỉ
mang các đặc trng của kinh tế đơn thuần, mà luôn gắn với một hệ thống của chính
trị là nền tảng của t tởng của nó. Về mặt thực tiễn, rõ ràng ở quốc gia nào cũng
vậy , ngời ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia
đó đợc bảo đảm- Các lợi ích này không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế. Nó luôn đ-
ợc xác định gồm cả lợi ích chính trị của mỗi quốc gia. Cho nên, bất cứ hiệp định
song phơng giữa hai quốc gia nào cũng luôn có điều khoản loại trừ các yếu tố gây
hại đến an ninh quốc gia mỗi nớc. Với cách tiếp cận trên, có thể hiểu hội nhập
kinh tế quốc tế, của nớc ta hiện nay không chỉ là quá trình gia nhập các tổ chức
kinh tế quốc tế mà còn đợc thể hiện trong bản thân hệ thống chính các thơng mại,
chính sách phát triển kinh tế đã và đang đợc Đảng, Nhà nớc định hớng.
Những phát kiến về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, sự
phát triển đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất nhờ áp dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ, sự mở rộng thị trờng quốc tế, mở rộng giao lu quốc tế đã phá vỡ
tính biệt lập, khép kín trong phạm vi quốc gia, mở rộng không gian hoạt động của
các quốc gia. Đây chính là tiền đề cho quá trình tích luỹ về lợng để chuẩn bị cho
sự thay đổi về chất tới một giới hạn nào đó(độ) thì dẫn đến một bớc nhảy về kinh
tế là xu thế toàn cầu hoá ra đời.
Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn tới sự hình thành và phát triển xu thế toàn
cầu hoá kinh tế, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu là:
-Xu thế toàn cầu hoá kinh tế trớc hết bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực
lợng sản xuất, từ tính chất xã hội hoá của lực lợng sản xuất trên phạm vi quốc gia
và quốc tế.
-Xu thế toàn cầu hoá kinh tế chịu sự tác động trực tiếp rất mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Sự phát triển của các công nghệ
cao( công nghệ sinh học, công nghệ viễn thông ) đã làm thay đổi về chất lực lợng
sản xuất của loài ngời, đã đa loài ngời từ văn minh công nghiệp lên văn minh tin
học, đã tạo thành kinh tế tri thức, kĩ thuật số, hình thành mạng máy tính toàn
cầu( Internet), phá vỡ hàng rào ngăn cách về không gian và thời gian giữa các
quốc gia trên thế giới và thúc đẩy các nớc quan hệ, hợp tác với nhau.
- Sự phát triển và bành trớng của các công ty t bản độc quyền xuyên quốc gia,lực
lợng chi phối toàn cầu hoá.
Chính những nguyên nhân trên đã đặt các quốc gia, phát triển cũng nh đang phát
triển, đứng trớc thách thức về tụt hậu. Do đó các quốc gia đều đặt u tiên cho phát
triển kinh tế. Trong đó, yêu cầu về mở rộng thị trờng, tìm kiếm đối tác ngày nay
đã trở thành một nhiệm vụ chủ yếu.
Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đợc bắt đầu từ cuối những năm 80 khi
Đảng và Nhà nớc thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới nền kinh tế. Đại Hội
VII của Đảng (1991) đã thông qua định hớng nền kinh tế đa phơng hoá, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế Nghị quyết đại hội VIII của Đảng (1996) đã quyết định :
đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Nghị quyết hội nghị
Trung Ương lần thứ 4 khoá VIII (12-1997) chỉ rõ nguyên tắc hội nhập là : trên
cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn
lực từ bên ngoài, tiến hành khẩn trơng, vững chắc việc đàm phán hiệp định Th-
ơng mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực
hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA.
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế các quy định đối với mỗi quốc gia, là tự
do hoá thơng mại và đầu t một cách công khai, rõ ràng theo 4 nguyên tắc cơ bản
sau:
- Công bằng
- Tự do hoá thơng mại
- Làm ăn hay thơng lợng với nhau phải trên có sở có đi có lại.
- Công khai mọi chính sách Thơng Mại và đầu t.
Với các nguyên tắc trên, nớc đi sau nh nớc ta sẽ có nhiều thuận lợi, nhất là
trong việc học hỏi các kinh ngiệm của các nớc đi trớc, nhng cũng sẽ phải chịu
rất nhiều khó khăn thách thức mà quan trọng hàng đầu là việc bảo hộ nền sản
xuất trong nớc và các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp quốc
doanh mới chân ớt, chân ráo bớc vào nền kinh tế thị trờng.
Với tầm nhìn chiến lợc xác định rõ tình hình và xu thế phát triển của thế giới,
trên cơ sở yêu cấu bức xúc của phát triển kinh tế đất nớc, Đại hội đã khẳng định
Xây dựng một nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế và Thế
giới, nghị quyết 4 của Ban chấp hành TW khoá III cũng đã nêu rõ:tích cực,
chủ động thâm nhập và mở rộng thị trờng quốc tế, gia nhập APEC và WTO,
có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA.
Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế là quan điểm, là định hớng phải đợc nhất
quán tuân thủ.
Qua nghiên cứu thực tiễn các hoạt động hội nhập kinh tế của các nớc, nhất là
các nớc đang phát triển, có thể thấy rằng hội nhập kinh tế quốc tế luôn không
phải chỉ toàn đợc mà không có thua thiệt. Vấn đề toàn cầu hoá nh một:con dao
hai lỡi. Một mặt nó tạo cơ hội phát triển kinh tế- kĩ thuật, tạo khả năng giao lu
văn hoá, trí tuệ, chuyển giao công nghệ hiện đại, phát triển văn minh vật chất.
Mặt khác, nó làm trầm trọng thêm bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu
nghèo, làm xói mòn bản sắc văn hoá dân tộc, tấn công vào chủ quyền quốc gia.
Về phơng diện nguyên tắc, phải xác định một chiến lợc hợp lý, sao cho có thể
kiếm đợc lợi một cách tối đa và hạn chế đến mức thấp nhất có thể đợc những
thua thiệt. Và điều quan trọng là cái đợc phải nhiều hơn cái mất.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ
vừa cạnh tranh, vừa tận dụng mọi cơ hội vừa phải đối phó với những thách thức to
lớn. Đối với nớc ta hiện nay, thách thức lớn nhất là năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nớc, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh còn yếu, rất dễ bị
thua thiệt trên thơng trờng; là sự thiếu hụt năng lực thu thập và phân tích thông tin
để dự báo chiều hớng phát triển của nền kinh tế thế giới và các đối tác cạnh tranh,
từ đó kém khả năng mở rộng và phát triển thị trờng của mình. Ngay cả đội ngũ cán
bộ làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế của ta hiện nay cũng vừa học, vừa làm.
Chúng ta tham gia cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ kinh tế và công nghệ của
ta còn thấp. Bảo vệ nền kinh tế cũng nh bảo vệ các doanh nghiệp của ta, nhất là
các doanh nghiệp quốc doanh là vấn đề phải đợc đặt lên hàng đầu. Một lộ trình hội
nhập nhanh quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế với mức độ cao quá khả năng
của các doanh nghiệp sẽ dẫn đến những hậu quả khó lờng đối với nền kinh tế, đôi
khi cả chính trị của đất nớc. Song điều đó cũng không có nghĩa là càng kéo dài lộ
trình hội nhập kinh tế với mức độ càng thấp càng tốt. Bởi vì kéo dài lộ trình sẽ
làm cho sức ì càng nặng, kém đầu t cải tiến quản lý công nghệ, dẫn tới tình trạng
kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh và nền kinh tế ngày càng tụt hậu so với nền kinh
tế thế giới.
Toàn cầu hoá kinh tế có tác dụng trực tiếp đến chính trị, có những hệ quả về mặt
chính trị. Song ở đây không nên hiểu luận điểm kinh tế quyết định chính trị một
cách đơn giản và máy móc. Thông qua con đờng hợp tác, đầu t, tự do hoá thơng
mại, viện trợ, cho vay theo hớng khuyến khích t nhân hoá, tự do hoá t sản. Các thế
lực t bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ muốn tạo ra những cơ sở kinh tế t bản chủ
nghĩa. Từ đó dẫn đến hình thành những lực lợng chính trị đối lập ngay trong lòng
xã hội để thực hiện tự diễn biến hòng thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa( đối với
các nớc xã hội chủ nghĩa) hoặc thay đổi chính phủ theo hớng thân phơng Tây( đối
với các nớc đang phát triển) gây sức ép về kinh tế và chính trị đối với các nớc. Tuy
vậy, chủ nghĩa đế quốc vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của các nớc đang phát
triển, các nớc xã hội chủ nghĩa nhằm chống lại âm mu áp đặt về chính trị. Vừa
qua, Hiệp định thơng mại Việt- Mĩ đã đợc kí kết, một hiệp định rất có lợi đối với
sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, nhng trớc đó Mĩ định dùng áp lực này nhằm
thông qua đạo luật nhân quyền, một sự can thiệp thô bạo vào nền chính trị của
nớc ta.
Cũng nh lĩnh vực chính trị, lĩnh vực văn hoá cũng chịu tác động bởi quá trình
toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lu quốc tế,
tăng thêm mối liên hệ và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, sự xích lại gần
nhau giữa các quốc gia. Do đó, nó cũng tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lu về
văn hoá, khoa học giữa các quốc gia, dân tộc tiếp thu có chọn lọc những thành tựu
của văn hoá nhân loại, bổ sung cho nhau tạo điều kiện hiện đại hoá văn hoá. Tuy
nhiên, mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế trong điều kiện do thế lực t bản chi phối lại
tạo nguy cơ làm sói mòn bản sắc dân tộc, mâu thuẫn với việc giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc. Trên thế giới, chủ nghiã đế quốc nhất là đế quốc Mỹ dựa trên sức
mạnh kinh tế của mình đang muốn toàn cầu hoá văn hoá, thậm chí là Mỹ hoá. Ng-
ời ta tuyên truyền về lối sống Mỹ, văn hoá Mỹ, còn các kênh truyền thông Mỹ thì
phủ khắp hành tinh, phim ảnh Hô-li-út của Mỹ đợc chiếu khắp các nớc, thậm chí
đồ ăn thức uống Mỹ( Mac Donald, Coca Cola ) lan tràn khắp nơi. Đến nỗi Pháp
cũng lo bị Mỹ hoá. Mỹ muốn áp đặt giá trị, lợi ích văn hoá, lối sống của mình cho
toàn cầu. Chính vì thế, nớc ta phải hết sức chú trọng đến vấn đề bảo tồn văn hoá
trong xu thế toàn cầu hoá, tránh bị hoà tan trong khi hoà nhập.
Không chỉ có vậy, toàn cầu hoá còn ảnh hởng đến vấn đề môi trờng. Từ năm
1973 đến nay, tuy số liệu điều tra cha đầy đủ nhng chắc chắn diện tích rừng bị
giảm không phải là con số ít. Chẳng hạn nh ở Lâm Đồng, mỗi măn tính trung bình
có 10.000 ha rừng bị tàn phá. Trong vòng 20 năm trở lại đây có 25% diện tích
rừng bị biến mất. Từ năm 1990 đến 1995, toàn cuốc có 5 triệu ha rừng bị huỷ diệt
(bình quân mỗi năm mất 1 triệu ha rừng) . Vấn đề ô nhiễm môi tròng , khói bụi và
rác thải
Tuy còn nhiều khó khăn và tồn tại nhng sau hơn 2 thập niên tham gia vào quá
trình toàn cầu hoá nền kinh tế nớc ta đã thu đợc những thành tựu đáng kể. Hàng
năm nền kinh tế đều có tăng trởng: tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân
hàng năm là 8,2% , giảm tỉ lệ lạm phát từ 14,7% năm 1986 xuống 12,7% năm
1995 và khoảng 5% năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (1991-1995) đạt
17 tỷ đô la và 1996 đạt trên 7 tỷ đô la. Mở rộng đợc quan hệ hợp tác với nớc ngoài,
thu hút vốn đầu t và kĩ thuật của nhiều nớc để phát triển kinh tế trong nớc đến cuối
năm 1996 có trên 700 công ty lớn, nhỏ đầu t vào nớc ta với 22 tỷ đô la nằm trong
1800 dự án phát triển kinh tế thuộc nhiều thành phần khác nhau nh: công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng tài chính. Chúng ta đã thiết lập quan hệ buôn
ngoại thơng với 120 nớc trên thế giới, xoá bỏ thế bị bao vây, cô lập về kinh tế tạo
ra thế và lực mới để cạnh tranh trên thị trờng thế giới. Môi trờng kinh tế vĩ mô
ngày càng ổn định và cán cân thơng mại ngày càng đợc cải thiện rõ rệt làm cho
nền kinh tế phát triển và năng động hơn.
III-Những kiến nghị và giải pháp.
Để khắc phục những tồn tại của kinh tế Việt Nam nhằm mục tiêu đa nền kinh tế
phát triển và bền vững trớc xu thế toàn cầu hoá em có những kiến nghị sau:
- Xây dựng thể chế pháp lí cho quan hệ giữa nớc ta và các nớc hình thành một
hệ thống đồng bộ các thoả thuận, cũng nh các hiệp định làm nền tảng cho
quan hệ hợp tác quốc tế. Cụ thể là: tham gia và hỗ trợ việc chuẩn bị, đàm
phán kí kết các hiệp định, thoả thuận cấp chính phủ giữa nớc ta với các nớc,
cũng nh thực hiện tốt việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các thoả thuận, hiệp
định đã đợc kí kết, cả phía ta và phía bạn. Góp phần xây dựng hệ thống pháp
luật kinh tế của ta cho phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, trực tiếp
tham gia vào quá trình hình thành và phát triển các luật lệ, quy định quốc tế,
nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích của đất nớc và công dân ta trong quan hệ quốc
tê. Pháp huy vai trò tích cực trong các uỷ ban hỗn hợp và các quy chế song
phơng về hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nớc; kịp thời phát hiện, kiến
nghị và phối hợp giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế giữa
nớc ta với các nớc và các tổ chức quốc tế; bảo vệ chủ quyền kinh tế và lợi
ích kinh tế của Việt Nam trên trờng quốc tế.
- Triển khai thực hiện các chủ trơng, chính sách kinh tế, đặc biệt là về kinh tế
đối ngoại. Nhiệm vụ này là của ngành ngoại giao. Cụ thể là làm thật tốt
công tác tiếp thị, tìm kiếm các nguồn vốn đầu t, mở rộng thị trờng, tìm kiếm
đối tác. Với lợi thế, đặc điểm của ngành cần nắm vững chính sách, luật lệ
của các nớc sở tại, cung cấp nhanh và chính xác những thông tin quan trọng
về thị trờng, đối tác; nắm bắt kịp thời những nhân tố thuận lợi hoặc không
thuận lợi; tăng cờng giới thiệu về tiềm năng kinh tế, chính sách, luật lệ và
nhu cầu của ta cho các đối tác nớc ngoài. Ngành ngoại giao thực hiện công
việc này trong sự hợp tác và phối phợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các địa
phơng, cũng nh các doanh nghiệp.
- Nghiên cứu kinh tế các nớc, kinh tế thế giới, khu vực, các tổ chức kinh tế
quốc tế và quan hệ kinh tế quốc tế; nghiên cứu kinh tế Việt Nam để góp
phần hoạch định các chủ trơng, chính sách kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh
hiện nay, công tác này cần đợc tăng cờng với chất lợng cao hơn để có những
đề xuất tham mu có gia trị cao với đảng và chính phủ.
- Tìm hiểu nhu cầu, khả năng về các mặt của các đối tợng, các nớc và các tổ
chức quốc tế , khả năng và nhu cầu của các bộ ngành trong nớc để đề xuất
kiến nghị với chính phủ có chủ trơng, chính sách làm ăn với từng nớc. Hiện
nay và trong thời gian tới cần tập trung vào các lĩnh vực nh: xúc tiến thơng
mại đặc biệt là tìm kiếm thị trờng mới, mở rộng thị trờng để tăng cờng xuất
khẩu hàng hoá, dịch vụ và xuất khẩu lao động của Việt Nam; thu hút FDI và
các hình thức đầu t quốc tế khác; vận động ODA, các hình thức viện trợ
khác và hỗ trợ kĩ thuật của cộng đồng quốc tế, và xử lý nợ nớc ngoài; thúc
đẩy du lịch và chuyển giao công nghệ ; tranh thủ sự đóng góp của cộng
đồng ngời Việt Nam ở nớc ngoài cho sự nghiệp phát triển đất nớc, quảng bá
văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam trên thế giới.
- Trực tiếp chuẩn bị và đàm phán hoặc tham gia đàm phán kí kết các loại hiệp
định, thoả thuận chính phủ (song phơng, đa phơng) giữa ta với các nớc làm
nền tảng pháp lý cho quan hệ hợp tác quốc tế phát triển; theo dõi, đôn đốc
việc thực hiện các hiệp định, thoả thuận đã kí kết. Hiện nay và tới đây, cần
quan tâm nghiên cứu đóng góp vào khả năng kí kết các hiệp định song ph-
ơng và đa phơng nhằm hình thành một hệ thống đồng bộ các thoả thuận và
hiệp định về tất cả các mặt biên giới lãnh thổ, lãnh sự, hỗ trợ t pháp, hợp
tác kinh tế- thơng mại và khoa học- công nghệ.
- Hỗ trợ các bộ, ngành, địa phơng và các doanh nghiệp trong việc móc nối,
thẩm tra các đối tác, tìm kiếm và mở rộng thị trờng; giúp đỡ các doanh
nghiệp làm ăn ở nớc ngoài. Trong thời gian tới cần: tích cực tìm kiếm và mở
rộng thị trờng quốc tế cho xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, ngời lao động và
đầu t của Việt Nam.
- Tham gia xây dựng khung pháp lý, các văn bản pháp quy về kinh tế vĩ mô
nói chung và văn bản chuyên ngành, đặc biệt là việc thông tin về kinh
nghiệm của các nớc.
- Công tác thông tin, tuyên truyền kinh tế nhằm cung cấp những thông tin cần
thiết, chính xác cho những hoạt động kinh tế cụ thể của các cơ quan nhà nớc
và doanh nghiệp.
- Tham gia quản lý nhà nớc trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.


Phần kết luận
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ các nguồn
nội lực, đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; kết
hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp là nội dung quan trọng của
đờng lối kinh tế do Đại hội IX của Đảng đề ra. Chủ động hội nhập kinh tế là để
tạo ra điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mặt khác, có
độc tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả,
đảm bảo giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Tất cả vì một nớc
Việt Nam dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bớc
đi lên CNXH
Việc Việt Nam tham gia toàn cầu hoá kinh tế đã khơi dậy tiềm năng của sản
xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản
xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó nền kinh tế nớc ta thực sự
đợc đổi mới, bớc đầu đạt đợc những thành tựu to lớn: từ một nớc đói kém, cơ sở
vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu đến nay trở thành một nớc không chỉ đủ ăn
mà còn d thừa, xuất khẩu ra nớc ngoài( đặc biệt là lúa, gạo). Tuy nhiên, ta
không đợc tự bằng lòng với những gì đã đạt đợc bởi vì đạt đợc đã khó, giữ đợc
còn khó hơn. Vì thế đòi hỏi ta phải cố gắng nỗ lực không ngừng để củng cố
những thành quả và tạo cho mình một chỗ đứng chắc chắn trên trờng quốc tế.



Tài liệu tham khảo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét