Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Tính kế thừa của phủ định biện chứng trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam



những mặt mới phù hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự
biến đổi trong đó giai doạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực đợc tạo ra
ở giai đoạn trớc và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực. Do
vậy phủ định biện chứng mang tính kế thừa.
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt
tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ
định đồng thời cũng là khẳng định, diễn đạt t tởng đó, Lênin viết: Không
phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi
ngờ là cái đặc trng và cái bản chất trong phép biện chứng mà lại sự phủ
định coi nh là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự
duy trì cái khẳng định.
Giá trị của sự kế thừa biện chứng đợc quy định bởi vai trò của nó trong
sự ra đời cái mới. Không có cái mới nào ra đời từ cái h vô, nhờ việc giữ lại
nhân tố tích cực của cái phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện
của mình.
Qúa khứ không bao giờ lại biến mất hoàn toàn. Trong dòng chảy vô
tận của thời gian, những nhân tố của quá khứ sẽ để lại dấu ấn nhất định ở
hiện tại. Những nhân tố của quá khứ sẽ tham gia vào việc tạo lập cái hiện
tại, tạo nên sợi dây liên hệ sinh động giữa quá khứ và hiện tại. Một trong
những hình thức quan trọng của cái đợc kế thừa trong đời sống xã hội là
truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những
năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Chẳng hạn, truyền thống yêu nớc của dân
tộc ta đợc các thế hệ Việt Nam kế thừa liên tục từ chỗ yêu nớc là trung với
vua đến trung với Đảng, hiếu với dân.
Thực chất của sự phát triển là sự biến đổi, mà giai đoạn sau còn bảo
tồn tất cả những gì đã đợc tạo ra ở giai đoạn trớc, chẳng hạn trong khi phủ
định Chủ nghĩa t bản với t cách là một chế độ lỗi thời chủ nghĩa xã hội
cũng kế thừa toàn bộ những thành quả của sự phát triển tiến bộ xã hội đã
đạt đợc trong chủ nghĩa t bản, song những yếu tố đợc giữ lại đó cũng phải
đợc cải tạo, đợc biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội
để trở thành những yếu tố nội tại của CNXH.
Trong quá trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biêt kế thừa những di
sản tích cực của dân tộc cũng nh của thế giới. Nhng có lúc, có nơi đã coi
nhẹ việc khai thác vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sach
trơn. Ngợc lại có lúc có nơi lại phục hồi lại những phong tục tập quán đã
lỗi thời, khong biết đứng trên yêu cầu mới của cách mạng mà cải biến và sử
dụng những vốn cũ đó cho phù hợp .
5


Đối lập với quan điểm biện chứng, những ngời theo quan điểm siêu
hình coi phủ định là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ là chấm dứt sự liên hệ, sự
vận động, sự phát triển của bản thân sự vật. Do đó quan điểm siêu hình
không thấy đợc tiền đề của sự nảy sinh ra cái mới. Mặt khác, khi nói đến
kế thừa thì họ hiểu kế thừa một cách nguyên xi không phê phán, không cải
tiến cải tạo chúng hoặc lắp ghép các yếu tố của cái cũ vào cái mới một cách
đơn giản máy móc.
Những ngời thuộc phái văn hoá vô sản ở Nga đầu những năm cách
mạng có thái độ phủ định sạch trơn nền văn hoá quá khứ. Theo họ nền văn
hoá vô sản không có liên quan gì với nền văn hoá trớc, họ chủ trơng xây
dựng lại từ đầu nền văn hoá mới của giai cấp vô sản. Đây là quan điểm siêu
hònh xem phát triển chỉ là sự phát triển tăng lên hay giảm đi thuần tuý về l-
ợng không có sự thay đổi về chất. Sự phát triển chỉ là thay đổi số luợng của
từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại mới với những tính quy
định về chât, có thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo
một vòng khép kín.
Việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn cứ
để phân biệt một quan điểm biện chứng với quan điểm siêu hình. Điều chủ
yếu để phân biệt hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn
ra nh thế nào. Trong quan điểm biện chứng duy vật, phát triển là một phạm
trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình
thay đổi về lợng dẫn đến những thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo
vòng xoáy trôn ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dờng nh có sự quay
trở lại diểm xuất phát nhng trên cơ sở cao hơn.
Nh vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái cũ mà
còn gắn liền cái cũ với cái mới dựa trên cơ sở của cái cũ để tạo nên sự phát
triển.
Nền kinh tế nào cũng có những khuyết điểm những mâu thuẫn tồn tại
trong nó và một xã hội mà luôn giữ một kiểu tổ chức sản xuất, phơng thức
sản xuất thì chắc chắn sẽ không thể tiến lên đợc. Vì vậy nền sản xuất phải
luôn đợc đổi mới phù hợp với phép phủ định biện chứng. Nền sản xuất lỗi
thời không còn năng động nữa sẽ đợc thay thế bởi nền sản xuất tiến bộ,
năng động và phát triển phù hợp với thời đại. Công cụ sản xuất bằngcơ khí
ra đời thay thế công cụ sản xuất bằng lao động thủ công. Đến lợt nó sản
xuất tự động hoá ra đời thay thế công cụ bằng cơ khí của quá trình sản
6


xuất. Nguyên nhân của quá trình thay thế này là do những động lực tự thân
của nền sản xuất xã hội quy định, do những nhu cầu không ngừng biến đổi
và phát triển của con ngời. Nhng sự thay thế đó không phải là vứt bỏ, phủ
định sạch trơn phơng thức sản xuất cũ mà chúng vẫn đợc giữ lại, tồn tại
song song với phơng thức sản xuất mới và trở thành các nghành, các phơng
thức sản xuất truyền thống đôi khi chúng rất cần đối với nền kinh tế của
một số nớc .
7


phần 2 : tính kế thừa của phủ định biện chứng vào
công cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam
1.Những tồn tại bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự
cung tự cấp ở Việt Nam:
Sau khi miền Bắc giành độc lập, đợc sự giúp đỡ của các nớc XHCN và
dựa vào kinh nghiệm của các nớc đó, đất nớc ta bắt đầu xây dựng mô hình
kịnh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về t
liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận tình của nhân
dân các nớc XHCN khác, mô hình kinh tế kế hoạch hoá đã phát huy đợc
tính u việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế
hoạch hoá Nhà nớc đã tập trung vào tay mình một lực lợng vật chất quan
trọng về đất đai tài sản và tiền bạc để ổn định đất nớc và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong thời kì đầu ở nớc ta đã tỏ ra
phù hợp với điều kiện của đất nớc, nó đã tạo ra một bớc chuyển biến quan
trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích ứng với nền kinh tế
thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại
của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nớc huy động ở mức cao nhất
sức ngời và sức của cho tiền tuyến.
Nhng sau khi giải phóng miền Nam, bức tranh toàn cảnh về hiện trạng
kinh tế đã có nhiều thay đổi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn
tại cả ba loại hình: kinh tế tự cung tự cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung và nền kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm
1975 nhng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trơng xây dựng kinh tế chỉ huy nh ở
miền Bắc trớc đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng
loạt các hiện tợng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một
cách mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì ấn định trớc theo những
chỉ tiêu của Nhà nớc. Điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách
quan nh quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị bị vi phạm
nghiêm trọng, làm cho tình hình lu thông tiền tệ, giá cả không kiểm soát đ-
ợc, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát nớc ta đã lên đến 3 con số
làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình kinh tế nớc ta
lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền kinh tế kém phát triển đợc sự bảo trợ
của Nhà nớc lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không
8


hiệu quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong
cách thì cửa quyền dới chính sách dù lỗ của Nhà nớc ngày càng không đem
đến bất cứ một hiệu quả kinh tế nào. Đồng thời do chủ quan cứng nhắc
không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế, chúng ta đã
không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nớc, trái
lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài
nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi truờng bị ô nhiễm, sản
xuất kém hiệu quả, Nhà nớc thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó đã
gây ra rất nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trởng kinh tế gặp
nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm , ngân sách bị thâm hụt nặng
nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu nh
không có, vốn đầu t chủ yếu vào vay và viện trợ của nớc ngoài. Đến cuối
những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát
cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phơng
xảy ra nạn đói triền miên. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế
của nớc talà do đã áp dụng dập khuôn một mô hình kinh tế cha thích hợp
và kém hiệu quả.
Trớc sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng nh trên, thêm vào đó viện trợ n-
ớc ngoài giảm sút đã đặt nền kinh tế nớc ta trớc sự bức bách đòi hỏi phải
đổi mới. Đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.
2.Tính kế thừa của phủ định biện chứng khi chuyển nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc ở Việt Nam:
2.1.Sự ra đời của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nớc:
Trong tình hình đất nớc đang gặp nhiều khó khăn, có những tồn tại và
bất cập trong nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng VI(1986) đã chủ trơng
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện hạch toán kinh doanh
XHCN . Đến Đại hôi Đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế
kinh tế ở nớc talà một tất yếu khách quan, tức là chuyển nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc
theo định hớng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong lí luận cũng nh trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên
mặt trận làm kinh tế. Xét dới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế
9


thị trờng là đúng đắn và phù hợp với quy luật phủ định của phủ định và xu
thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ
thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ đừng nói đến tích luỹ
vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỉ 80 đã chỉ rõ
đợc thực tế của cơ chế quản lý kinh tế cũ cho dù chúng ta liên tục đổi mới
hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhng hiệu quả đạt đợc của nền sản xuất
xã hội rất thấp, sản xuất không đáp ứng dợc nhu cầu của tiêu dùng xã hội ,
tích luỹ hầu nh không có đôi khi còn lấn chiếm cả vốn của nớc ngoài.
Thứ hai, do đặc trng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó
chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có
tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy của n-
ớc ta tồn tại quá dài do đó nó không những có tác dụng đáng kể trong việc
thúc đẩy phát triển sản xuất mà nó còn sản sinh ra nhiều hiện tợng tiêu cực
làm giảm năng suất chất lợng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về những nhân tố của cơ chế thị trờng. Về vấn đề này có
rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trờng nớc ta
là một thị trờng mới hình thành còn non yếu và là thị trờng sơ khai. Thực tế
thị trờng đã hình thành và phát triển đợc những mức phát triển khác nhau ở
hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trờng trong nớc đã
đợc thông suốt và vơng tới những vùng hẻo lánh xa xôi và đang đợc mở
rộng với thị trờng quốc tế. Nhng thị trờng ở nớc ta phát triển cha đồng bộ,
còn thiếu hẳn thị trờng các yếu tố sản xuất nh thị trờng lao động, thị trờng
vốn và thị trờng đất đai và về cơ bản vẫn là thị trờng tự do, mức can thiệp
của Nhà nớc còn rất thấp, cha có sự quản lý chặt chẽ một cách hệ thống và
liên kết các thị trờng một cách động bộ theo pháp luật.
Thứ t, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền minh tế nớc ta
đang hoà nhập với nền kinh tế thị trờng thế giới, sự giao lu về hàng hoá,
dịch vụ và đầu t trực tiếp của nớc ngoài làm cho sự vận động của nền kinh
tế nớc ta gần gũi hơn vối nền kinh tế thị trờng thế giới, tơng quan giá cả
của các loại hàng hoá quốc tế.
Thứ năm, xu hớng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển
kinh tế mỗi nớc không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự
cạnh tranh giữa các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân
số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của
các quốc gia là tạo ra đợc nhiều của cải vật chất làm cho quốc gia của mình
10


đạt tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân đợc cải thiện, thất
nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thứơc đo chủ yếu vai trò và sức
mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức
mạnh của các Đảng cầm quyền. Vì vậy, chúng cần phải đổi mới để phát
triển kinh tế cũng nh những mặt xã hội khác để khẳng định vị trí của Đảng
của dân tộc mình trên trờng quốc tế.
Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trờng
không thể nào giải quyết đợc những vấn đềdo chính cơ cấu và bản thân đời
sống kinh tế xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng
hoảng, ô nhiễm môi trờng, sự bùng nổ dân số cũng nh các hiệm tợng xã hội
khác. Những tình trạng và hiện tợng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay
gián tiếp đều có tác dụng ngợc trở lại làm cản trở sự phát triển bình thờng
của xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng, vì vậy sự tác
độnh của Nhà nớc một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy
luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của nền kinh tế xã hội.
Nh vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kì dài tiến hành xây dựng
nền kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định bàn tay vô hìnhcủa
thị trờng, cơ chế này đã có vai trò lịch strong những năm1950-1979 và đã
có tác dụng đáng kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội và đáp ứng
nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nớc. Song
cơ chế này đã đợc duy trì khá lâu, làm cho từ tập trung ở mức cần thiết
chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và cản
trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trớc yêu cầu và nhiệm vụ
mới, trong Đại hội lần thứ IV của Đảng(1986), Đảng và Nhà nớc ta đã
mạnh dạn đa ra đờng lối đổi mới, điều chỉnh cơ cấu kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn
tại của thành phần kinh tế t nhân và có những chính sách mở rộng hợp tác
quốc tế nhằm đa nền kinh tế nớc ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Theo hớng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã đựơc đại hội VI
của Đảng xác định và tiếp tục đợc đại hội VII của Đảng khẳng định: Tiếp
tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận
hành có hiệu quả cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.

2.2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc:
11


Trớc đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần
khiết XHCN, Nhà nớc ta đã xây dựng một nền kinh tế hoạt động theo cơ
chế kế hoạch hoá tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và
tập thể là chủ yếu mà không chú ý đến yếu tố thị trờng, hàng hoá sản xuất
ra đợc định giá sẵn và không tuân theo những quy luật của thị trờng. Trên
thực tế , cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự phát triển kinh tế. Do đó
nền kinh tế hàng hoá ra đời là tất yếu, có là kết quả của giải quyết mâu
thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có nghĩa là phủ định sạch trơn tất
cả những gì của nền kinh tế cũ mà là sự chuyển đổi có tính kế thừa, trên cơ
sở khắc phục, sửa đổi nhứng tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những mặt
tốt, mặt tích cực của nó, điều này đợc thể hiện nh sau:
Trớc hết đó là việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế
khác bên cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các
thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, thành
phần kinh tế cá thể, kinh tế t bản t nhân Nh vậy mặc dù đã phủ định loại
bỏ những mặt yếu kém của nền kinh tế cũ nhng nền kinh tế mới đã biết kế
thừa những yếu tố tích cực của nền kinh tế cũ và phát triển nó một cách
toàn diện tích cực hơn. Hai thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần
kinh tế tập thể vẫn giữ vai trò chủ đạo trong đờng lối phát triển kinh tế.
Những bớc đổi mới quan trọng của Đảng và Nhà nớc là sự thừa nhận của
các thành phần kinh tế khác nh thành phần kinh tế t bản t nhân. Với sự
chuyển đổi đó, phân công lao động xã hội với t cách là cơ sở kinh tế của
sản xuất hàng hoá chẳng nhng không mất đi, trái lại ngày càng phát triển
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Đổi mới kinh tế xã hội khong nên hiểu chỉ là sự thay đổi cơ chế quản
lý mà thực chất là sự giải thể có kế thừa cấu trúc gắn với mô hình cũ, xây
dựng cấu trúc mới bao gồm nhiều mặt: cơ cấu sở hữu thành phần kinh tế;
cơ cấu ngành sản xuất, kinh doanh; cơ cấu vùng lãnh thổ; cơ cấu kĩ thuật
công nghệ; cơ cấu lao động, cơ cấu đầu t
Đảng ta chủ trơng trên cơ sở ổn định chính trị để đổi mới và phát triển
kinh tế xã hội: cần chú ý sâu sắc rằng đổi mơí là quá trình gắn với các
thời kì đổi mới khác nhau có liên quan đến nhau, vận dụng những u điểm
của thời kì trớc và khắc phục những mặt yếu kém. Những thời kì đó là:
Thời kì xuất hiện mầm mống đổi mới đợc đánh dấu từ Nghị quyết
Trung ơng lần thứ 6 khóa IV (tháng9 năm 1979). Qua các sự kiện nh :
12


khoán chui, làm chui trong nông nghiệp; thực hiện kế hoạch 3 phần
(phần chỉ tiêu pháp lệnh, phần một nửa chỉ tiêu pháp lệnh một nửa tự lo của
xí nghiệp và phần tự do theo thị trờng hoàn toàn), trong các nghành công
thơng nghiệp.
Thời kì khởi xớng đổi mới. Từ kinh nghiệm tiên tiến đợc tổng kết, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), đánh dấu chính thức khởi
xớng công cuộc đổi mới, tạo bớc ngoặt mới, cơ bản trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội ở nớc ta.
Trớc đây đã có thời kỳ ngời ta cho rằng, văn hoá nằm ngoài sự phát
triển kinh tế và tìm nền tảng phát triển kinh tế từ chính các nhân tố thuần
tuý kinh tế. Nhng, trong những năm gần đây, ngời ta đã có quan niệm đúng
đắn hơn về các vấn đề này và coi văn hoá là một trong những động lực của
nền kinh tế năng động; đồng thời , nó cũng có tác động kìm hãm với sự
tăng trởng kinh tế. Từ cách tiếp cận trên, có thể khẳng định rằng, kinh tế-
với t cách là một hoạt động của con ngời gắn bó chặt chẽ với văn hoá;
văn hoá không đứng ngoài kihn tế mà một trong những nhân tố quan trọng
của sự phát triển kinh tế.
Sau gần 20 năm cải cách và mở cửa nền văn hoá của ta càng đợc thăng
hoa nhanh hơn khi nó xoá bỏ nhiều khuôn phép cũ, xơ cứng của văn hoá
truyền thống phong kiến, hình thành từng bớc những quan niệm về giá trị,
đạo dức con ngời và gắn kết hai cái đó lại với nhau, tạo nên khuôn mặt
mới, nội dung cơ bản của văn hoá mới. Nếu trớc đây , ai đó có nói đến cái
tôi , đến kiếm tiền, đến thụ hởng vật chất cá nhân, đến làm giàu thì đều
bị quy là cá nhân chủ nghĩa, phi đạo đức, là ảnh hởng lối sống t sản. Nay,
thì ít ai lên án chúng nữa, thậm chí còn đớc coi là chuyện thờng ngày, miễn
sao kiếm tiền và làm giàu hợp pháp là đợc. Cái giáo lý xa, lỗi thời của đạo
đức truyền thống trọng nghĩa khinh tài cũng theo đó đợc uốn nắn lại theo
hớng trả lại ý nghĩa đúng đắn của nguyên tắc lợi ích vật chất, của sự đa
dạng trong phong cách sống, kiếm tiền Từ những thay đổi quan niệm về
đạo đức và giá trị, ngời ta đã rủ nhau lập ra các hội buôn, xí nghiệp t nhân,
hùn hạp nhau để mở trờng tậu lớp, khôi phục phát triển nghành nghề Rõ
ràng, cải cách và mở cửa đã làm bật dậy nhiều quan niệm mới về giá trị,
đạo đức, nhất là làm cho chúng ăn nhập vào hành vi con ngời nh là một nội
dung cơ bản của văn hoá mới.
Cái tiêu cực của văn hoá truyền thông Việt Nam chủ yếu là chuyên chế
và khép kín với bên ngoài. Nó đề cao tuyệt đối luân lý, đạo đức trung hiếu,
trung quân làm cá tính của con ngời bị bóp nghẹt, tính sáng toạ của họ
13


cũng bị tê liệt, coi mọi cái sinh lợi đều bất chính, mọi mu toan tìm cách
kiếm lời đều ti tiện bất nghĩa Tuy nhiên , văn hoá truyền thống phong
kiến cũng có những cái đợc khơi trong để sử dụng nh quan hệ giữa ngời với
ngời Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở
nớc ta, văn hoá đạo đức đợc coi là nguồnlực quan trọng cho sự phát triển
của nền kinh tế. Vai trò to lớn của nó đợc thể hiện ở khả năng định hớng
cho việc khai thác những nhân tố tích cực và hạn chế những nhân tố tiêu
cực cho việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế với công bằng
xã hội.
Thực tế cho thấy, văn hoá đã góp phần định hớng và làm cho việc lựa
chọn và xác định những quốc sách phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp.
Chẳng hạn, trong quá trình mở cửa, chúng ta chấp nhận chia sẻ để học hỏi
những kinh nghiệm của bạn bè quốc tế nhằm phát triển nền kinh tế.
ở nớc ta ngày càng nhiều nghành nghề mới ra đời và phát triển. Bên
cạnh những nghành nghề mới ra đời và phát triển đó, những nghành nghề
cổ truyền có tiếng không chỉ trong nớc mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà
trớc đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay đợc phục hồi và phát triển.
Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, từng địa phơng, phân công lao
động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó đợc phản ánh ở tính phong phú, đa
dạng và chất lợng cao hơn của sản phẩm lao động đa ra trên thị trờng. Sự
chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vợt khỏi phạm vi quốc gia trở
thành quốc tế.
Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác là
sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu về t liệu sản xuất và sản phẩm lao
động nh sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể của những ngời sản
xuất nhỏ, sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: t bản Nhà n-
ớc, công ty cổ phần.
Đây cũng là bớc ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo điều
kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lợng sản
xuất và phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại.
Ngoài việc chuyển đổi t tởng mạnh mẽ về sự đa dạng hoá các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới
kinh tế ở nớc ta còn đợc thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy
công cụ kế hoạch hoá một cách linh hoạt bằng việc kết hợp bàn tay vô
hình với bàn tay hữu hình. Nền kinh tế nớc ta, từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung phụ thuộc hoàn toàn vào sự quản lý của Nhà nớc đã chuyển
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét