Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

LỜI NÓI ĐẦU
Vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển dài hạn, luôn luôn đóng vai
trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển kinh tế cả ở cấp doanh nghiệp lẫn
cấp địa phương và quốc gia, cả trong quá khứ, hiện tại lẫn trong tương lai
Vốn đầu tư là một khái niệm mở, rộng ở đề tài này, vốn đầu tư được tiếp
cận theo nghĩa hẹp là các nguồn lực tài chính - tiền tệ. Hơn nữa, do thực chất các
nguồn vốn huy động trên 5 năm là rất nhỏ, và ít được bóc tách trong các thống
kê hiện có, nên vốn đầu tư dài hạn ở đây được hiểu là các khoản tín dụng và đầu
tư tài chính - tiền tệ trung và dài hạn theo cách hiểu của ngành ngân hàng nước
ta, tức có thời hạn từ trên 12 tháng. Ngoài ra, đề tài cũng mới giới hạn phạm vi
nghiên cứu là ở các nguồn đầu tư dài hạn trong nước, chứ không đề cập các
nguồn vốn nước ngoài hoặc chỉ xem xét nó với tư cách nhân tố để thúc đẩy vốn
đầu tư dài hạn trong nước. Với góc độ tiếp cận trên đây, mục tiêu bao trùm của
đề tài là trên cơ sở đánh giá thực trạng bức tranh chung về việc khai thác và sử
dụng vốn đầu tư dài hạn trong nước cho phát triển Thủ đô để đề xuất một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường huy động và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư dài hạn trong nước cho phát triển kinh tế của thành
phố trong thời gian tới. Để tránh trùng lặp với các đề tài khác và do nội hàm rất
rộng của tên đề tài, nên ở đây đề tài đặt trọng tâm vào nghiên cứu một số kênh
và công cụ quan trọng đối với thành phố Hà Nội như vốn XDCB tập trung,
KBNN, thị trường tài chính, thuê mua tài chính
Vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, chắc chắn kết quả nghiên cứu đề
tài còn nhiều hạn chế, kính mong sự lượng thứ và trân trọng cảm ơn các ý kiến
đóng góp để hoàn thiện đề tài này.
5
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ
I.1. Khái niệm và vai trò của vốn dài hạn
Vốn, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các nguồn lực tài chính, nhân
lực, tri thức, tài sản vật chất và cả các quan hệ đã tích lũy được của cá nhân, DN,
quốc gia…
Vốn, hiểu theo nghĩa hẹp, chủ yếu là phần tiềm lực tài chính - tiền bạc của
cá nhân, DN, quốc gia đó.
Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết cấu thành và tham gia
vào quá trình sản xuất và tái sản xuất - kinh doanh hình thành và tích lũy được
trong mỗi gia đình, DN, địa phương và cả quốc gia. Các nhân tố cấu thành vốn
trong nước bao gồm: vốn tài chính - tiền tệ, các dạng của cải, tài sản vật chất và
tri thức, nguồn nhân lực và các quan hệ trong nền kinh tế thị trường… Chúng có
thể chuyển hóa cho nhau và được đo lường chung bằng tiền trong điều kiện nhất
định (trừ vốn - con người).
Dưới đây chỉ xin đề cập tới vốn trong nước với cách hiểu theo nghĩa hẹp
nêu trên.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế dài hạn là những khoản vốn dài hạn chi cho
các hoạt động mở rộng sản xuất - kinh doanh, những công trình xd CSHT trực
tiếp hoặc gián tiếp phục vụ phát triển kinh tế, cũng như cho các hoạt động khác
liên quan đến sản xuất - kinh doanh và phát triển kinh tế theo chiều sâu của đất
nước, địa phương và DN. Hơn nữa, theo cách hiểu thông thường hiện nay, vốn
ngắn hạn là vốn có thời gian kể từ khi huy động đến lúc hoàn trả là dưới 12
tháng, trung hạn thì từ trên 12 tháng đến dưới 5 năm và dài hạn là trên 5 năm.
Tuy nhiên, do trên thực tế hoạt động của ngân hàng, vốn có thời hạn trên 5 năm
chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nên dưới đây, vốn dài hạn được hiểu là vốn trung và dài
hạn, tức có thời hạn hoàn trả vốn từ trên 12 tháng.
Trong cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp với chế độ cấp phát và
giao nộp sản phẩm đã không tạo động lực quan tâm nhiều đến việc huy động và
sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nói chung, vốn dài hạn nói riêng trong nền kinh tế,
cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư cũng được quan niệm
rất đơn giản. Thậm chí chưa có sự phân định giữa vốn và tiền. Cơ chế phân phối
vốn chỉ bó hẹp ở hai kênh: ngân sách nhà nước và vay tín dụng ngân hàng với
6
lãi suất thấp. Từ đó dẫn đến những sai lầm như việc phát hành thêm tiền để đầu
tư, hay chưa chú ý đến các nguồn lực khác ngoài NSNN. Các địa phương không
quan tâm đến việc tự huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế,
thậm chí là không được phép thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới, quyền tự chủ của các địa phương đã được coi
trọng và phát huy. Những nhận thức về vốn cũng đã thay đổi.
Mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai
đoạn hiện nay cũng như sắp tới của Việt Nam là tạo sự chuyển biến tích cực về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tập trung đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở; tích
cực đổi mới và nâng cao năng lực KH - CN, sức cạnh tranh của nền kinh tế và
các DN, thực hiện thành công CNH - HĐH và không ngừng cải thiện chất lượng
sống của nhân dân. Để thực hiện được các nhiệm vụ trên thì cần phải có nguồn
vốn lớn, đặc biệt là vốn dài hạn. Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng, về lâu dài thì
vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình phát triển bền vững của cả nước cũng như của từng địa phương,
trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Chính sách huy động và sử dụng vốn là một bộ phận quan trọng trong
chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu
nhập trong phạm vi toàn xã hội, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích luỹ
- tiêu dùng và các chính sách tiền tệ, tín dụng. Việc hoạch định và thực hiện
chính sách huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến
các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ, cũng như đến tốc
độ và hiệu quả phát triển KT - XH nói chung.
Thực tế phát triển thế giới cho thấy, bất kỳ nước nào cũng đều phải sử
dụng nguồn lực nội bộ là chính. Nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, dù là viện trợ,
cho vay hay đầu tư từ nước ngoài cũng không thể thay thế cho đầu tư từ các
nguồn vốn trong nước. Hơn nữa, nguồn vốn nước ngoài không phải là vốn cho
không, từ trên trời rơi xuống mà đều có điều kiện và phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố. Về lâu dài, vốn vay đều phải trả cả gốc lẫn lãi, còn FDI phải dành một phần
cho chuyển lãi và vốn gốc về chính quốc.
Thực tế của quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã cho chúng ta
thấy: cùng với vốn bên ngoài, bao giờ cũng phải có vốn đối ứng bên trong mới
có thể triển khai công trình một cách thuận lợi. Thêm vào đó, cần phải có vốn
đầu tư cho các công trình "ngoài hàng rào" như đầu tư cho các cơ sở hạ tầng về
điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc và các cơ sở hạ tầng xã hội khác.
7
Nhiều công trình đầu tư không phát huy được hiệu quả hoặc hiệu quả
thấp một phần là do các yếu tố cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội "ngoài hàng rào"
không đáp ứng được yêu cầu. Một nhà máy được xây dựng mà không có công
trình cơ sở hạ tầng kinh tế đồng bộ thì khó có thể hoạt động tốt được. Ngoài ra,
đi cùng với nhà máy tất yếu phải có các cơ sở hạ tầng xã hội như các khu dân
cư, trường học, bệnh viện, cơ sở văn hoá, thể thao nếu không, sẽ gây không ít
khó khăn cho hoạt động và ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà
máy. Theo kinh nghiệm của các nước, vốn đầu tư cho các công trình ngoài hàng
rào đôi khi còn cao hơn vốn đầu tư cho các nhà máy. Vì vậy, dù là công trình
được đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài thì vốn đầu tư trong nước cũng rất quan
trọng.
Về tỷ trọng giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, xét về lâu dài, vốn
trong nước phải nhiều hơn vốn nước ngoài. Không thể mong đợi sự tăng trưởng
nhanh và vững chắc nhờ vào các nguồn vốn từ bên ngoài. Kinh nghiệm phát
triển của các nước cũng đã chứng minh điều đó, ở đây chỉ có trường hợp ngoại
lệ của các nước có nguồn tài nguyên quý, với trữ lượng lớn như dầu mỏ của các
tiểu vương quốc A-rập, Bruney nhưng ngay cả những trường hợp này thì cuối
cùng vốn bên trong (dù chỉ là vốn có được do bán tài nguyên thiên nhiên) sẽ lớn
hơn vốn bên ngoài.
Cuối cùng, xét về lợi ích dân tộc, nếu không có vốn đầu tư trong nước đủ
mức cần thiết thì xét về lâu dài, nguồn của cải làm ra có thể lớn, nhưng phần của
cải thực sự mà ta được hưởng (tính thông qua chỉ tiêu GNP) lại rất ít. Như vậy,
nền kinh tế có vẻ phồn vinh, sản phẩm có vẻ dồi dào nhưng của cải đó không
thuộc sở hữu của nhân dân trong nước. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp
trong nước chỉ dừng lại ở mức 30-40% như hiện nay có một lý do quan trọng là
thiếu vốn đối ứng trong nước. Không ít doanh nghiệp phải dùng "quỹ đất' để góp
vốn, phần còn thiếu lại phải đi vay nước ngoài để góp vốn cho các liên doanh.
Một số doanh nghiệp trong nước mua thiết bị nước ngoài theo hình thức trả
chậm, nhưng do không có vốn nên lại phải vay thương mại với những điều kiện
bất lợi, làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của công trình.
Có thể nói, vốn, đặc biệt nguồn vốn đầu tư dài hạn là một trong những yếu
tố quyết định sự thành công của sự nghiêp phát triển kinh tế - xã hội, công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Không có vốn đầu tư dài hạn thì sẽ không
có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, không đổi mới và nâng cao được năng lực KH - CN,
cải thiện sức cạnh tranh và nâng cao trình độ phát triển của đất nước, địa
phương, DN.
8
I.2. Đặc điểm vốn đầu tư phát triển dài hạn
Vốn đầu tư dài hạn có một số đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, đòi hỏi quy mô vốn lớn và thời hạn thu hồi vốn dài
Vốn đầu tư dài hạn được sử dụng vào việc nghiên cứu và áp dụng khoa
học, công nghệ mới, đổi mới và hiện đại hóa trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ cho tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở rộng
sản xuất kinh doanh và phát triển theo chiều sâu… Đây là những lĩnh vực, dự án
thường đòi hỏi quy mô vốn đầu tư rất lớn và thời hạn hoàn vốn dài. Thậm chí,
có những dự án không thể tính được thời hạn thu hồi vốn trực tiếp, nhất là vốn
đầu tư cho xây dựng đường xá, cầu cống, nghiên cứu khoa học cơ bản… Điều
này càng rõ nét đối với những quốc gia và địa phương nào đang ở giai đoạn đầu
cất cánh…
Đặc điểm của nguồn vốn dài hạn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế chi phối mạnh phưong thức huy động vốn, quá trình
quản lý và sử dụng vốn. Nói cách khác nó ảnh hưởng đến chiến lược vốn - một
bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất
nước và địa phương.
Thứ hai, vốn đầu tư dài hạn dễ có độ rủi ro cao tùy thuộc vào tính chất
của môi trường và cơ hội đầu tư, cũng như các phương thức và chính sách huy
động, sử dụng vốn.
Do thời hạn thu hồi vốn dài, nên đầu tư dài hạn dễ gặp rủi ro về kinh tế
(lãi suất, lạm phát, khấu hao vô hình, sự thay đổi cung – cầu tương lai…) và phi
kinh tế (thay đổi chính sách, thể chế, thiên tai…). Đây là điều mà các nhà đầu tư
tư nhân hay e ngại. Điều này cũng giải thích vì sao tỷ trọng vốn dài hạn trong
tổng vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường rất
thấp. Tuy nhiên, tùy theo sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, nhất là mức độ tự
do hóa kinh doanh, sự ổn định và những thay đổi có thể dự báo được của chính
sách, độ thông thoáng về thủ tục quản lí nhà nước, và các ưu đãi khác… mà vốn
đầu tư dài hạn có thể được huy động ngày càng nhiều hơn thông qua sự phối kết
hợp linh hoạt của các công cụ và kênh huy động vốn đa dạng, thích hợp, trong
đó có đầu tư trực tiếp của các DN, các nhà đầu tư tư nhân trong nước và nước
ngoài.
Thứ ba, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn cho phát triển cần phải
nhìn trên góc độ hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp và dài hạn.
9
Vì là đàu tư dài hạn nên hiệu quả của vốn đầu tư dài hạn cũng chậm phát
huy tác dụng. Hơn nữa, do một số dự án được đầu tư không thể định lượng được
trực tiếp và chính xác lợi ích mà nó tạo ra (nhất là các công trình CSHT công
ích), nên cần đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn phát triển kinh tế trên góc độ
hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp và dài hạn. Khi đưa ra quyết định cho mỗi dự
án đầu tư cần xem xét hiệu quả với một cách nhìn toàn diện, xem xét hiệu quả
kinh tế cần đi đôi với hiệu quả xã hội. kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu
dài, lợi ích cục bộ của từng bộ phận với lợi ích tổng thể của toàn xã hội. Hiệu
quả kinh tế, xã hội luôn gắn liền với nhau, tác động tực tiếp đến chính sách huy
động và sử dụng vốn, đặc biệt đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng,
các dịch vụ công cộng. Vì vậy, khi đầu tư vào các dự án ngoài việc chú trọng
đến hiệu quả kinh tế của dự án cần xem xét các vấn đề xã hội như công ăn việc
làm, thu nhập, mức sống của người lao động để đảm bảo đạt được hiệu quả
tổng hợp cao nhất.
Nhằm đạt được tốc độ luân chuyển và hiệu quả cao nhất, vốn đầu tư dài
hạn cần được nhìn nhận theo một quy trình khép kín trên cả 3 phương diện: huy
động, sử dụng và quản lý, cũng như phải đảm bảo thông suốt trên cả 3 giai đoạn:
tích luỹ- huy động - đầu tư, đồng thời phải hướng vào đầu tư có trọng điểm với
quy mô và phương thức thích hợp, tập trung đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực
ưu tiên, tránh đầu tư tràn lan, đầu tư theo kiểu phong trào, thiếu quy hoạch và
nhất là không đảm bảo chất lượng xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật công nghệ và
môi trường, dễ để lại hậu quả nặng nề về sau.
I.3. Các phương thức huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát
triển kinh tế Thủ đô
Xét trên phưong diện tổng thể, các nguồn vốn trong nước đều được sinh
ra từ quá trình tiết kiệm và tích lũy của cá nhân, tổ chức doanh nghiệp và Nhà
nước. Nguồn vốn này được huy động và sử dụng cho đầu tư phát triển chủ yếu
thông qua các kênh như Ngân sách nhà nước (mà quan trọng hơn cả là qua phần
vốn XDCBTT và qua KBNN), các ngân hàng, tổ chức tín dụng thương mại, thị
trường tài chính, thuê mua tài chính và qua các hình thức khác…
I.3.1. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua kênh Ngân sách Nhà nước
Huy động vốn qua kênh ngân sách nhà nước được thực hiện dưới các hình
thức như động viên thuế, phí và các hình thức vay nợ qua KBNN (như công
trái, trái phiếu, tín phiếu ). Nói cách khác, nguồn vốn đầu tư của NSNN được
hình thành từ nguồn vốn tích luỹ của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của nhà
10
nước, còn việc sử dụng cho đầu tư dài hạn chủ yếu thông qua phần vốn xây
dựng cơ bản tập trung của NSNN các cấp và kiểm soát chi qua KBNN.
Nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn vốn tích luỹ
đầu tư từ ngân sách Nhà nước (chênh lệch giữa số thu từ thuế, phí với chi tiêu
dùng thường xuyên), nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ cho đầu tư
phát triển và các nguồn vốn khác như từ quỹ dự trữ tài chính, các tài sản của
Nhà nước Đây là nguồn vốn đầu tư hết sức quan trọng trong nền kinh tế, chủ
yếu dùng để đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở, tạo ra môi trường đầu tư
thuận lợi và tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn để khuyến khích kinh tế
phát triển. Với việc nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước trên cả hai
lĩnh vực thu và chi ngân sách nhà nước, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển của
ngân sách nhà nước sẽ ngày càng tăng trong tổng số chi ngân sách nhà nước và
luôn giữ vai trò là nguồn vốn quan trọng trong xã hội trong quá khứ, hiện tại và
những năm trước mắt.
Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là tìm cách nâng cao
phần tích luỹ của NSNN và phát triển nguồn vốn tín dụng. Để tăng nguồn vốn
tích luỹ của NSNN cần áp dụng các chính sách tăng thu triệt để các nguồn thu
và tiết kiệm triệt để các khoản chi, thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu dùng của
ngân sách. Ngân sách phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể
góp phần nâng cao tỷ trọng tích lũy trong nước để đầu tư dài hạn cho phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, cần coi trọng giải quyết hài hòa về lợi ích kinh tế giữa Nhà
nước, doanh nghiệp và xã hội khi ban hành các chính sách, chế độ động viên vào
NSNN thông qua thuế và phí; vừa đảm bảo nguồn thu tài chính để Nhà nước
thực hiện điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, bảo vệ
an ninh quốc phòng, vừa phải tạo điều kiện tích luỹ, tích tụ, tập trung vốn của
DN, cơ sở, địa phương cho mở rộng sản xuất - kinh doanh, đầu tư phát triển theo
chiều sâu, giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo và mở rộng nguồn thu lâu dài.
Do vậy, việc giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất, giảm số lượng thuế
suất; giảm dần các ưu đãi và miễn giảm thuế; mở rộng phạm vi, đối tượng nộp
thuế; đảm bảo nguyên tắc công bằng về thuế giữa các thành phần kinh tế, giữa
các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đẩy
mạnh quá trình cơ cấu lại sản xuất kinh doanh, khuyến khích đổi mới công nghệ,
hướng dẫn tiêu dùng, thúc đẩy xuất khẩu, điều tiết thu nhập, là hết sức quan
trọng và cần thiết trong chính sách thuế, phí của Nhà nước khi động viên NSNN.
Tuy nhiên, trong điều kiện, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân còn
thấp, nguồn thu của ngân sách Nhà nước (chủ yếu là thuế) còn có hạn; trong khi
11
đó nhu cầu chi ngân sách và vốn cho đầu tư phát triển kinh tế rất lớn, nguồn vốn
huy động thông qua thu thuế, phí cho ngân sách nhà nước không thể đáp ứng
nhu cầu vốn ngày càng lớn cho đầu tư phát triển. Do vậy, vay nợ của Chính phủ
là biện pháp rất quan trọng để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước và bổ sung
nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
Chính phủ và cho phép các địa phương phát hành trái phiếu (trái phiếu chính
quyền địa phương, trái phiếu đô thị) là biện pháp hữu hiệu nhất để bù đắp thiếu
hụt ngân sách, đồng thời còn tập trung được lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội để
tăng nguồn chi cho phát triển kinh tế xã hội do nó đáp ứng được các nhu cầu chi
tiêu của ngân sách mà không phải dùng biện pháp phát hành - lạm phát và không
lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài, dễ gây nên bất ổn về kinh tế. Biện pháp này
được sử dụng tại hầu hết các nước trên thế giới, ngay cả các nước phát triển có
nguồn thu tương đối lớn. Tuy nhiên, cũng không thể lạm dụng biện pháp này bởi
lẽ khi vay nợ quá lớn thì sẽ tạo ra gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong trả
gốc và lãi, đặc biệt việc cung cấp lượng tín dụng ròng từ hệ thống ngân hàng cho
ngân sách Nhà nước lớn cũng sẽ gây nên áp lực lạm phát cao. Vì vậy, cần phải
nắm vững nhu cầu vay vốn, mục đích sử dụng vốn, khả năng cung ứng nguồn
vốn, từ đó xây dựng chiến lược và kế hoạch huy động vốn cho hiệu quả và phải
quản lý vay nợ tốt để tránh gây nên sự bất ổn định về tài chính.
Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn để đầu tư
cho cơ sở hạ tầng đô thị, thông qua việc vay từ các ngân hàng thương mại và
vay trực tiếp từ thị trường tài chính thông qua phát hành trái phiếu qua KBNN.
Cơ sở pháp lý cho việc khai thác và sử dụng vốn dài hạn thông qua
KBNN đó đã được xác lập khá đồng bộ.
Luật NSNN số 01/2002/QH11 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các tỉnh
thành phố trực thuộc TW quyền chủ động huy động và sử dụng vốn dài hạn cho
đầu tư phát triển địa phương. Khoản 3 Điều 8 Luật NSNN qui định: "Trường
hợp tỉnh, thành phố trực thuộc TW có nhu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế
hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân
đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động trong nước và
phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến
hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư
XDCB trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh". Tuy nhiên, Hà Nội và
TP.Hồ Chí Minh được thực hiện theo qui định riêng của Chính phủ, nghĩa là
không nhất thiết phải tuân theo giới hạn 30% này.
12
Theo Quyết định 235/2003/QĐ-TTg ngày 13.11.2003, KBNN thực hiện
chức năng: (1) quản lý nhà nước về Quĩ NSNN, các quĩ tài chính nhà nước và
các quĩ khác của nhà nước; (2) thực hiện việc huy động vốn cho NSNN, cho đầu
tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của pháp
luật. Chính chức năng thứ hai của KBNN qui định phạm vi và hình thức khai
thác, sử dụng vốn dài hạn thông qua KBNN Hà Nội. Khoản 10 Điều 2 Quyết
định này khẳng định KBNN có nhiệm vụ: "Tổ chức huy động vốn trong nước và
ngoài nước cho NSNN và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành công trái,
trái phiếu theo qui định của pháp luật". Điều 3 Quyết định 235 nêu rõ "KBNN
được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, thành hệ thống dọc từ TW
đến địa phương, theo đơn vị hành chính. Theo đó, KBNN Hà Nội chỉ được phép
huy động cho NSNN và cho ĐTPT bằng hai công cụ công trái và trái phiếu.
Ngày 20/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP về
việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính
quyền địa phương, cụ thể hoá hoạt động huy động thông qua KBNN, thay thế
Nghị định số 01/2000/NĐ-CP về Qui chế phát hành TPCP. Trái phiếu Chính
phủ hay trái phiếu chính quyền địa phương đều là một loại chứng khoán nợ do
Chính phủ hay UBND cấp tỉnh phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác
nhận nghĩa vụ trả nợ của người phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Trái
phiếu Chính phủ bao gồm 6 loại: Tín phiếu Kho bạc, Trái phiếu Kho bạc, Trái
phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây
dựng Tổ quốc. Ngoại trừ Tín phiếu và Trái phiếu Kho bạc phát hành để bù đắp
thiếu hụt của NSNN trong năm tài chính hoặc theo dự toán hàng năm, 5 loại Trái
phiếu Chính phủ còn lại và Trái phiếu của Chính quyền địa phương (đối với Hà
Nội là trái phiếu đô thị) đều có thể là những công cụ để KBNN Hà Nội huy động
vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển Thủ đô. Trái phiếu được phát hành bằng
cả đồng Việt Nam và ngoại tệ tự do chuyển đổi dưới dạng chứng chỉ hoặc bút
toán ghi sổ, có ghi tên hoặc không ghi tên.
Các loại Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ,
Công trái XDTQ đều có thời hạn trên 1 năm và do Chính phủ, Bộ Tài chính
quyết định nên KBNN Hà Nội chỉ đóng vai trò tham gia khai thác và sử dụng
"gián tiếp", nghĩa là theo chỉ tiêu nhiệm vụ thu chi được TW giao. Công cụ trực
tiếp huy động và sử dụng vốn đầu tư của KBNN Hà Nội được qui định trong
Nghị định 241/2003/NĐ-CP chính là Trái phiếu chính quyền địa phương - loại
trái phiếu đầu tư có kỳ hạn trên 1 năm do UBND cấp tỉnh uỷ quyền cho KBNN
hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn phát hành, nhằm huy động vốn cho
các dự án, công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của NSĐP, đã ghi trong kế hoạch
13
năm nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Điều kiện phát hành
TPCQĐP là:
(1) dự án công trình phải thuộc Kế hoạch đầu tư 5 năm;
(2) có phương án phát hành, kế hoạch sử dụng và phương án trả nợ;
(3) Chủ tịch UBND ra quyết định uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ chức
tài chính, tín dụng trên địa bàn chịu trách nhiệm phát hành, thanh toán trái
phiếu.
Trái phiếu CQĐP được phát hành theo 3 phương thức:
1. Đấu thầu: lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu trái phiếu
2. Bảo lãnh phát hành: tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện
các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối
trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái
phiếu còn lại chưa phân phối hết.
3. Đại lý phát hành: tổ chức phát hành uỷ thác cho một tổ chức khác thực
hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư. Chỉ có các Công ty chứng khoán, Quĩ
đầu tư, Công ty Tài chính và các ngân hàng được phép bảo lãnh hoặc đại lý phát
hành trái phiếu.
Đáng lưu ý là TPCQĐP không được phép phát hành bằng phương thức
bán lẻ, dù là qua hệ thống KBNN hay không. Lãi suất TPCQĐP do Chủ tịch
UBND cấp tỉnh quyết định hoặc hình thành theo kết quả đấu thầu trong giới hạn
biên độ do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định và mặt bằng lãi suất thực tế của
TPCP cùng kỳ hạn tại thời điểm phát hành. Khoản thu từ TPCQĐP được ghi thu
vào ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp tỉnh chịu toàn bộ trách nhiệm thanh
toán gốc lãi và các chi phí liên quan tới TPCQĐP. Việc thanh toán được thực
hiện thông qua các tổ chức tài chính, tín dụng nhận uỷ thác do TPCQĐP chỉ
được phát hành bằng phương thức đấu thầu, bảo lãnh hay đại lý phát hành.
Người sở hữu TPCQĐP cũng có các quyền lợi tương tự như người sở hữu các
loại TPCP, đó là: (1) được thanh toán đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi khi đến hạn;
(2) được bán, tặng, cho, thừa kế, cầm cố, chiết khấu trái phiếu; (3) được miễn
thuế thu nhập đối với khoản thu nhập từ trái phiếu. TPCQĐP cũng được mua
bán trên thị trường tiền tệ hoặc chiết khấu, cầm cố tại NHNN, được niêm yết và
giao dịch trên thị trường chứng khoán. KBNN còn nhận ký gửi trái phiếu theo
yêu cầu của người sở hữu trái phiếu với mức phí do Bộ Tài chính qui định.
Đồng bộ với việc tạo ra khuôn khổ pháp lý tăng cường quyền chủ động
chi địa phương, thực hiện đẩy mạnh phân cấp ngân sách theo Luật NSNN, cho
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét