Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
khai thác hợp lý sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển, nhất là với những quốc
gia đang phát triển, có dân số đông và nguồn nhân lực dồi dào như nước ta hiện nay.
3.2. Nguồn nhân lực là đối tượng mà sự phát triển kinh tế xã hội phải hướng vào
phục vụ
Phát triển kinh tế xã hội cũng chính là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc
sống của con người ngày càng tốt hơn. Con người vừa là lực lượng tiêu dùng của cải vật
chất tinh thần của xã hội, nhưng cũng chính nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác động
mạnh mẽ tới sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Nhu cầu của
con người là vô hạn và ngày càng phong phú, đa dạng. Chính vì vậy nó đã tác động không
nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế và xã hội.
B - Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
1.Quan điểm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại để tiến hành
các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới, vì
mục tiêu phát triển.
Tài sản mới bao gồm tài sản vật chất (Nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, trí
năng, chuyên môn nghiệp vụ…).
Đầu tư phát triển bao gồm:
- Đầu tư tài sản vật chất (Tài sản thực)
- Đầu tư phát triển tài sản vô hình.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung của đầu tư phát triển những
tài sản vô hình. Nó cũng là việc chi dùng vốn hiện tại, tiến hành các hoạt động làm tăng
quy mô và chất lượng nguồn nhân lực, vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của một quốc
gia.
2.Nội dung của đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng việc
phát triển mọi mặt kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia. Gia nhập WTO không lâu,
Việt Nam gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít thách thức trên con đường phát triển.
Trong đó có việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực thế nào để đạt hiệu quả ? Chúng ta sẽ
nghiên cứu nội dung của vấn đề này để từ đó tìm ra những giải pháp và hướng đi đúng đắn
cho bài toán nan giải này. Về cơ bản, đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội
dung sau:
Nhóm 15
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo ( chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn,
bồi dưỡng nghiệp vụ…)
- Đầu tư cho đội ngũ lao động.
- Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ.
- Đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động, trả lương đúng, đủ
cho người lao động….
2.1. Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo
2.1.1. Đầu tư cho chương trình giảng dạy
Chương trình giảng dạy là những nội dung, kiến thức sẽ được đưa vào nhà trường nhằm
nâng cao tri thức cho mỗi người tham gia khoá học. Vì vậy chương trình giảng dạy ở các
cấp cần đựợc coi trọng đúng mức.
Ở nứớc ta chương trình học ở các cấp phần lớn thể hiện trong sách giáo khoa (SGK). Đây
là loại sách cung cấp kiến thức chuẩn, phục vụ cho việc dạy và học.SGK được phân loại
theo đối tượng sử dụng hoặc chủ đề của sách. Kiến thức SGK là một kiến thức khoa học,
chính xác theo một trình tự logic chặt chẽ, được gia công kĩ lưỡng về mặt sư phạm, phù
hợp với trình độ học sinh và thời gian học tập.
Hệ thống SGK ở nước ta còn nhiều hạn chế. Trên thế giới có nhiều bộ SGK khác nhau
cùng biên soạn cho cùng một môn học, nhưng ở nước ta chỉ tồn tại một bộ sách duy nhất
cho một môn học. Nội dung mặc dù có sự nghiên cức kĩ lưỡng để phù hợp với trình độ của
học sinh nhưng chưa thật sự đáp ứng được với nhu cầu giảng dạy.
Để cải thiện tình hình nói trên Chính Phủ đã đầu tư rất nhiều cho công cuộc cải cách giáo
dục. Đáng lưu ý nhất là vấn đề cải cách sách giáokhoa. cải cách chương trình giảng dạy ở
tất cả các cấp: bỏ lối học thụ động ở cấp đại học, thay vào đó là đào tạo theo hình thức mới
( hình thức tín chỉ), giúp sinh viên có thể chủ động hơn trong cách dạy và học. Trường đại
học Xây Dựng hay đại học Kinh Tế Quốc Dân là những ví dụ điển hình cho hình thức đào
tạo này.
2.1.2. Đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy học.
Đại hội Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Coi đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Vấn
đề là làm thế nào để có chất lượng giáo dục tốt đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Trước hết phải có một đội ngũ giáo viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm và có chuyên môn sư
phạm cao. Họ là những người hướng dẫn và truyền đạt kiến thức cơ bản cho mỗi học viên
tham gia khoá học. Nhà nước cần chú trọng hơn nữa trong việc nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ của đội ngũ này, đặc biệt là đội ngũ giáo viên mới ra trường.
Nhóm 15
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Phuơng pháp giáo dục hay còn gọi là phương pháp giảng dạy là cách thức sử dụng các
nguồn lực trong giáo dục như: giáo viên, trường lớp, dụng cụ học tập, các phương tiện vật
chất để truyền đạt kiến thức cho người học.
Ở nước ta hiện nay đã hình thành và phát triển nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau
như
- Phương pháp giáo dục truyền thống: Giáo viên độc thoại, chủ động truyền đạt kĩ năng
còn người học tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Giáo viên đọc, học sinh chép và hầu
như chỉ học lượng kiến thức mà giáo viên cho ghi, hoàn toàn không có sự sáng tạo.
- Phương pháp giáo dục hiện đại: Giáo viên là người thiết kế tổ chức còn bản thân học sinh
là người tự tìm hiểu kiến thức. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn còn học viên phải tự học
hỏi, tự tìm tòi qua sách báo và các phương tiện khác. Theo phương pháp này thì học sinh
chủ động hơn trong cách học, vì vậy tăng khả năng sáng tạo, tìm tòi của học sinh, sinh
viên.
Tuy nhiên ở nước ta thì phương pháp giáo dục truyền thống vẫn phổ biến hơn cả. Chúng ta
đã đang và dần dần thay chuyển đổi sang phương pháp học mới nhưng còn gặp nhiều khó
khăn và tồn tại không ít những bất cập. Phương pháp giảng dạy kiểu mới có nhiều ưu điểm
nhưng đòi hỏi sự hoàn thiện về cơ sở vật chất nên rất cần sự đầu tư nhiều hơn nữa của
chính phủ vào công tác này.
Đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy là hai yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục. Đây là một trong những điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng đào
tạo đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Ý thức được điều này, Nhà nước rất quan tâm đến
việc bồi dưỡng, cập nhật và vận dụng các phương pháp giảng dạy trong nhà trường cũng
như nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giảng dạy.
2.1.3. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng giáo dục.
Cơ sở hạ tầng giáo dục là những điều kiện vật chất, phương tiện giảng dạy đáp ứng nhu
cầu giáo dục. Nhà nước đã đầu tư rất nhiều ngân sách cho việc xây dựng nhà trường, đầu
tư trang thiết bị nâng cao chất lượng dạy và học, mua sắm bàn ghế mới, đầu tư cho phương
pháp giảng dạy mới như giảng dạy bằng slide, trình chiếu power-point…
Theo luật giáo dục của Việt nam năm 2005 thì hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam
bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo
của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
- Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
- Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
- Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
Nhóm 15
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Giáo dục đại học và sau đại học (trong Luật gọi chung là giáo dục đại học), đào tạo trình
độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Ngoài ra, bên cạnh hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam thì còn có các cơ sở giáo dục
khác đóng góp vào phát triển nguồn nhân lực. Các cơ sở giáo dụckhác bao gồm:
- Nhóm trẻ, nhà trẻ.
- Các lớp độc lập: lớp mẫu giáo, lớp xoá mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành cho
trẻ em vì hoàn cảnh khó khăn không được đi học ở nhà trường, lớp dành cho trẻ tàn tật,
khuyết tật, lớp dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp được tổ chức tại các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục
thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng.
- Viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với
trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ.
Đầu tư cho giáo dục tại Việt Nam tăng dần hàng năm. Ngân sách dành cho giáo dục chiếm
một phần lớn trong tổng đầu tư của quốc gia. Điều đáng chú ý là ngân sách nhà nước dành
cho phát triển hệ thống trường đào tạo nghề tăng lên rõ rệt. Việt Nam ngày càng coi đào
tạo nghề là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực và lực lượng lao động xã hội. Điều này
cũng phản ánh qua chiến lược Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa là phải đẩy mạnh giáo dục
đào tạo, trong đó có đào tạo kỹ thuật và dạy nghề. Các dự án ODA trong giáo dục đào tạo
cũng đã dành phần lớn cho giáo dục cơ bản, giáo dục đại học và đang được triển khai với
vốn vay từ các tổ chức tính dụng quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank), ngân hàng
phát triển Châu Á (ADB) để mở rộng và nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục đào
tạo của Việt Nam. Điển hình là các dự án tài trợ của ADB cho hệ thống giáo dục cơ bản.
Việt Nam đang tiến hành một dự án đặc biệt "Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ có hoàn cảnh
khó khăn" với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội, điều kiện cho những trẻ có hoàn
cảnh khó khăn được đi học.
2.2. Đầu tư cho công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ.
Chăm sóc sức khoẻ là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng quan
hệ với nhau thông qua giá dịch vụ. Tuy nhiên khác với một số ngành dịch vụ khác, chăm
sóc sức khoẻ có nhiều đặc điểm riêng:
- Chúng ta không thể lường trước được các chi phí y tế phải trả vì chúng ta không thể dự
đoán được thời kì mắc bệnh, đặc biệt thể trạng của mỗi người là khác nhau, do đó nguy cơ
mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cũng khác nhau.
- Dịch vụ y tế là loại hàng hoá mà người sử dụng thường không tự mình lựa chọn được mà
chủ yếu do các cơ sở y tế quy định.
Nhóm 15
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Dịch vụ y tế là loại hàng hoá gắn liền với sức khoẻ, tính mạng con người nên không
giống với các nhu cầu khác, khi có bệnh, mặc dù tài chính eo hẹp nhưng người ta vẫn phải
đến các cơ sở y tế để khám chữa bệnh.
Có ba loại dịch vụ y tế :
- Dịch vụ y tế công cộng : là các dịch vụ mà lợi ích của nó không chỉ giới hạn ở việc cung
ứng trực tiếp các dịch vụ khám chữa bệnh cho người sử dụng mà còn cung ứng gián tiếp
cho cộng đồng như các dịch vụ phòng bệnh, giáo dục y tế.
- Dịch vụ y tế cho các đối tượng cần được chăm sóc ưu tiên: là các dịch vụ giành cho các
đối tượng đặc biệt như người nghèo, bà mẹ-trẻ em, người có công với cách mạng….
- Dịch vụ y tế cá nhân : là các dịch vụ chỉ cung cấp cho người sử dụng dịch vụ.
Trong thị trường dịch vụ y tế giá dịch vụ do bên cung ứng quyết định. Do vậy, thị trường
dịch vụ y tế cũng tồn tại nhiều “ Thất bại thị trường ” không thể tránh khỏi:
- Thị trường dịch vụ y tế không có sự cạnh tranh hoàn hảo. Muốn cung ứng một dịch vụ y
tế cần được cấp giấy phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện nhất định về nhu
cầu vật chất.
- Thông tin không hoàn hảo. Có sự bất đối xứng thông tin giữa bên cung cấp dịch vụ và
bên sử dụng dịch vụ. Bệnh nhân hoàn toàn dựa vào các quyết định cùa thầy thuốc trong
việc lựa chọn các dịch vụ y tế. Vấn đề này không được kiểm soát tốt sẽ dẫn tới các tình
trạng lạm dụng dịch vụ từ phía cung ứng, đẩy cao chi phí y tế
- Dịch vụ y tế cũng là loại hàng hoá công cộng, vì thế việc cung ứng dịch vụ sẽ trở nên khó
khăn đối với các dịch vụ y tế mang tính công cộng. Do đó cần có sự can thiệp của nhà
nước trong việc cung ứng đối với loại hang hoá dịch vụ này.
Chính vì những đặc điểm trên của ngành y tế mà việc đầu tư phát triển y tế chăm sóc sức
khoẻ phải được quan tâm một cách đặc biệt để phát triển nguồn nhân lực một cách hiệu
quả.
Đầu tư cho công tác y tế chăm sóc sức khỏe bao gồm các nội dung:
2.2.1. Đầu tư xây dựng bệnh viện ở các tuyến.
Bệnh viện là hệ thống không thể thiếu được trong nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc
sức khoẻ. Nhà nước trích một số tiền lớn nhằm xây dựng và nâng cấp hệ thống bệnh viện
một cách hợp lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, từng vùng
lãnh thổ, thực hiện mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả trong công tác chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Mục tiêu chung là:
Nhóm 15
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận một cách thuận lợi với các dịch vụ chăm sóc
chất lượng tại các bệnh viện.
- Đảm bảo tính hệ thống và liên tục trong điều trị chuyên môn, từ cấp cơ sở đến cấp TW,
phát triển cân đối hợp lý giữa bệnh viện đa khoa va chuyên khoa theo hướng chuyên sâu.
- Nâng cấp chất lượng dịch vụ, đầu tư vào các trang thiết bị mới, đáp ứng nhu cầu khám
chữa bệnh của người dân.
Theo vùng lãnh thổ hệ thống bệnh viện được phân bổ rộng rãi trên cả nước, bao gồm các
bệnh viện công lập, tư nhân. Nhà nước ngày càng khuyến khích việc hình thành và phát
triển các bệnh viện theo hướng đa dạng hoá các loại hình khám chữa bệnh, khuyến khích
thành lập các bệnh viện bán công, dân lập, tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài nhưng bệnh
viện công lập vẫn giữ vai trò chủ đao.
2.2.2. Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế chăm sóc sức khoẻ.
Trang thiết bị y tế là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả và chất lượng
của công tác y tế, do vậy cần được tăng cường cả về số lượng và chất lượng của các thiết
bị này; bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư, phương tiện vận chuyển chuyên dụng cho
các hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khoẻ.
Việc đầu tư vào lĩnh vực này cần chú ý đến những nội dung sau:
- Trang thiết bị y tế là lĩnh vực chuyên dụng và rất đắt tiền đòi hỏi yêu cầu khắt khe về kĩ
thuật, vì vậy cần có kinh phí lớn thì mới có được sự đầu tư hiệu quả.
- Đầu tư phải trọng tâm trọng điểm nhằm đạt được hiệu quả, khoa học và kinh tế. Xây
dựng kế hoạch đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất trang thiết bị y tế trong
nước có ưu thế.
- Tạo môi trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu khoa học và công
nghệ thuộc các ngành, các địa phương tham gia sản xuất trang thiết bị y tế. Khuyến khích
dung sản phẩm trong nước, giảm dần nhập khẩu.
- Có chính sách khuyến khích ưu tiên đối với việc cử cán bộ đi đào tạo về nghiên cứu sản
xuất trang thiết bị trong nước.
Bộ Y tế thành lập cơ sở nghiên cứu với sự tham gia của các cơ sở trực thuộc nhằm nghiên
cứu khả năng ứng dụng của các trang thiết bị y tế, các phương pháp chẩn đoán điều trị mới
trên thế giới để có thể áp dụng vào Việt Nam .
2.2.3. Đầu tư cho đội ngũ cán bộ y tế.
Việc đầu tư cho cán bộ y tế là cần thiết vì các trang thiết bị chỉ là những phương tiện hỗ trợ
Nhóm 15
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
cho việc khám chữa và chẩn đoán bệnh tật cho người bệnh, còn lực lượng chủ chốt trong
ngành vẫn là đôi ngũ cán bộ y tế.
Cần tiến hành đầu tư cho hệ thống giáo dục đào tạo ngay từ trong nhà trường. Việc đào tạo
phải được kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, đầu tư trang bị các công cụ phục vụ cho
công tác học tập và giảng dạy. Liên quan đến tính mạng con người nên chuyên môn của
đội ngũ này có vai trò cực kì quan trọng.
Có những chính sách khuyến khích như cấp học bổng, tổ chức các chương trình du học cho
các sinh viên y khoa có thành tích học tập tốt, nhằm nâng cao chuyên môn và kinh nghiệm.
Bên cạnh yếu tố chuyên môn nghiệp vụ thì phẩm chất người bác sĩ cũng là yếu tố quan
trọng không kém. “Lương y như từ mẫu”, đôi ngũ cán bộ y tế phải là những người hết lòng
và tận tâm chăm sóc người bệnh. Để làm đươc điều này thì đội ngũ y tế phải được chi trả
và phụ cấp đúng với trình độ của họ, giúp họ chi trả những chi tiêu thiết yếu trong cuộc
sống.
2.2.4. Đầu tư cho công tác tuyên truyền giáo dục phổ biến kiến thức sức khoẻ.
Đây là công tác quan trọng nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về bệnh tật cho người
dân.Công tác này cần chú trọng ngay từ cấp cơ sở thông qua các chương trình mục tiêu
quốc gia về y tế; thông qua cán bộ y tế ở cáp cơ sở cũng như các phương tiện truyền thông
đại chúng người dân có thể cập nhật kịp thời những loại bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao
cũng như nguy hiểm cho toàn xã hội, để từ đó có những biện pháp phòng và chống kịp
thời.
2.3. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc cho người lao động
Môi trường lao động là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất của người lao động.
Nghiên cứu vấn đề này chúng ta sẽ đề cập đến các nội dung cơ bản sau:
2.3.1. Đầu tư cải thiện điều kiện lao động.
Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố tự nhiên, xã hội và kinh tế được biểu hiện thông
qua các công cụ và phương tiện lao động, đối tượng lao động, quá trình công nghệ, môi
trường lao động và sự sắp xếp bố trí chúng trong không gian và thời gian xác định. Sự tác
động qua lại giữa chúng trong mối quan hệ với người lao động tại chỗ làm việc tạo nên
một điều kiện nhất định cho con người trong quá trình lao động.
Trong phần này chúng ta sẽ đề cập tới 3 vấn đề, đó là bảo hộ lao động, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp.
- Bảo hộ lao động: là tổng hợp tất cả các hoạt động trên mặt luật pháp,kinh tế xã hội…
nhằm mục đích cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người lao động.
Nhóm 15
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Nội dung chủ yếu của bảo hộ lao động là an toàn lao động, vệ sinh lao động và cả những
vấn đề về chính sách đối với người lao động ( vấn đề lao đông nghỉ ngơi, vấn đề lao động
nữ, vấn đề bồi dưỡng độc hại). Biết được điều này chúng ta cần có chính sách đầu tư đúng
đắn nhằm nâng cao công tác bảo hộ cho người lao động.
- Tai nạn lao động: là tai nạn xảy ra trong quá trình lao động do kết quả của sự tác động từ
bên ngoài của các yếu tố nguy hiểm gây chết người hoặc làm tổn thương chức năng hoạt
động của một bộ phận nào đó trên cơ thể.
Tai nạn lao động không chỉ ảnh hưởng đên điều kiện vật chất mà còn ảnh hưởng đến tinh
thần của người lao động, gián tiếp ảnh hưởng đến năng suất của doanh nghiệp. Vì thế nhà
nước và doanh nghiệp cần có những biện pháp thích hợp để hạn chế tối đa việc xảy ra tai
nạn lao động.
- Bệnh nghề nghiệp: là bệnh phát sinh do ảnh hưởng và tác động thường xuyên kéo dài của
các yếu tố có hại phát sinh trong sản xuất lên cơ thể người lao động. Những người làm việc
trong môi trường độc hại, ô nhiễm thường mắc phải bệnh nghề nghiệp. Để hạn chế vấn đề
này nhà nước và các doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác bảo hộ cho người lao động và
có những chính sách ưu đãi phù hợp đối với những đối tượng này.
2.3.2.Vấn đề trả lương đúng, đủ cho người lao động.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp
phải trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc mà người lao động cống
hiến cho doanh nghiệp.
Hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt. Chính vì vậy tiền lương không chỉ là vấn
đề thuần tuý về kinh tế mà còn là vấn đề xã hội rất quan trọng liên quan đến đời sống và
trật tự xã hội. Trả tiền lương không đúng và đủ cho người lao động có thể gây ra đình
công, bất mãn trong thái độ làm việc của công nhân… Từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến
quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Ở nước ta mức lương tối thiểu hiện còn chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người
lao động. Bên cạnh vấn đề trả lương đúng đủ cho người lao động, nhà nước và các doanh
nghiệp đang có những giải pháp nhất định để hoàn chỉnh vấn đề tiền lương, tạo ra động lực
để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động của mình.
2.3.3. Đầu tư nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động.
Ngoài những điều kiện vật chất thì yếu tố tinh thần có ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất
lao động. Nhận thức được điều này các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao đời sống tinh
thần của cộng nhân viên bằng các hoạt động thể thao, giải trí, văn nghệ… Những hoạt
động này đã ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng lao động và năng suất lao động trong mỗi
DN.
Nhóm 15
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
3.Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
3.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn.
Nhắc đến đầu tư là phải nhắc đến vốn. Vốn là yếu tố quan trọng và không thể thiếu đươc
của đầu tư. Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh
tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Có nguồn vốn dồi dào, có
nhiều dự án đầu tư quy mô lớn thì yêu cầu đối với nguồn nhân lực ngày càng cao. Vì vậy,
việc huy động vốn cho nền kinh tế cũng góp phần làm tăng quỹ cho việc đầu tư phát triển
nguồn nhân lực.
Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn
đầu tư nước ngoài.Vậy yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thu hút vốn trong nền kinh tê?
- Năng lực tăng trưởng kinh tế: là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn. Yếu
tố tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với
vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả
năng thu hút nó càng lớn. Khi năng lực tăng trưởng được đảm bảo năng lực tích luỹ của
nền kinh tế sẽ gia tăng, khi đó quy mô nguồn vốn trong nước sẽ được cải thiện, đồng thời
đó cũng là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
- Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành
vi đầu tư. Để thu hút được các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu
cầu phát triển của đất nước phải đảm bảo nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận
động của nó và sau nữa là nơi có khả năng sinh lợi cao. Nhắc đến môi trường kinh tế vĩ mô
chúng ta phải đề cập đến các yếu tố:thuế và các công cụ tài chính, lãi suất và tỉ giá hối
đoái, ổn định giá trị tiền tệ
- Lãi suất và tỉ giá hối đoái: đây là yếu tố không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn
đầu tư mà còn ảnh hưởng đến dòng chảy của các nguồn vốn và mức lợi nhuận thu được tại
một thị trường xác định.Lãi suất càng cao tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư càng lớn.
Đối với tỉ giá hối đoái, thực tế cho thấy giá đồng nội tệ càng giảm khả năng thu lợi từ đồng
nội tệ càng lớn. Điều này sẽ khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hàng xuất khẩu, và
như vậy thì sức hấp dẫn vốn nươc ngoài sẽ càng lớn.
Thuế và các công cụ tài chính khác là một trong những chính sách quan trọng ảnh hưởng
đến khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận. Ở nước ta ảnh hưởng của thuế thu nhâp
doanh nghiệp đến đầu tư chưa được thể hiện rõ nét, nhưng với các nước thu nhập cao trên
thế giới đây là yếu tố khá quan trọng khi các doanh nghiệp tiến hành đầu tư.
3.2.Các chính sách của nhà nước cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Các chính sách của nhà nước có ảnh hưởng lớn tới các hoạt động đầu tư nói chung và đầu
tư cho nguồn nhân lực nói riêng, bao gồm các chính sách đầu tư cho giáo dục, y tế, môi
trường, điều kiện làm việc…,chính sách thu hút vốn hiệu quả. Chính sách của nhà nước có
Nhóm 15
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư nhân lực.
Trong đầu tư cho giáo dục nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích học sinh sinh viên
như: học bổng, du học nước ngoài… hay các chính sách đầu tư xây đựng cơ sở vật chất hạ
tầng cũng như trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy, chăm sóc sức khoẻ…
Với mỗi giai đoạn khác nhau thì các chính sách của nhà nước cũng có những nét khác biệt
nhất định, gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Trong điều
kiện CNH-HĐH nước ta hiện nay thì chính sách đầu tư cho nguồn lao động chất lượng cao
cũng không phải là điều khó hiểu. Để huy động hiệu quả nguồn vốn đâu tư, nhà nước đã có
những chính sách và giải pháp hợp lý đồng bộ như việc đa dạng hoá các hìn thức và
phương tiện huy động vốn, tạo môi truờng chính trị ổn định nhằm thu hút vốn có hiệu quả,
nâng cao hiêu quả đầu tư.
3.3.Các yếu tố quốc tế.
Hệ thống giáo dục nước ngoài là yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực. Chúng ta đã liên doanh-liên kết, hợp tác-đào tạo với nhiều quốc gia có nền
giáo dục tiên tiến trên thế giới, và đã thu về những thành tựu rất đáng tự hào.
Bên cạnh đó yếu tố vốn nước ngoài (chủ yếu do viện trợ chính thức ODA và đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI) cũng góp phần không nhỏ trong đầu tư phát triển nhân lưc. Với xu
thế toàn cầu hoá hiện nay thì yếu tố quốc tế là một trong những nhân tố có tác động trực
tiếp đến hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Nhóm 15
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét