Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014
Luận văn kinh tế nhà nước
Trang 5
đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, phải luôn luôn đi đầu trong ứng dụng
kỹ thuật - công nghệ hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân.
Cũn cỏc doanh nghiệp hoạt động công ích là những doanh nghiệp hoạt
động không vỡ mục đích lợi nhuận, có thể không có thu mà nhà nước cấp
kinh phí - đó là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hoá công cộng, dịch
vụ công như : An ninh, quốc phũng, giao thụng, giỏo dục, ytế…
*Về cỏc tổ chức KTNN:
Các tổ chức KTNN là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng quản lý
(kiểm tra, kiểm soỏt) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước,
các quỹ dự trữ quốc gia…các tổ chức này có thể do nhà nước cung cấp 100%
vốn hoặc giữ một phần vốn cố định để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các
tổ chức này. Thành phần này cũng có nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
*Về cỏc tài sản thuộc sở hữu nhà nước:
Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là
thành phần của kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do
quuền sở mang lại như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên,…
2. Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước và vai trũ chủ đạo của kinh tế
Nhà nước trong nền kinh tế
2.1. Sự cần thiết có kinh tế Nhà nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xó hội
của đất nước.
Với mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước từ ngày bắt tay vào xây dựng Chủ
nghĩa xó hội ở miền Bắc cho đến hôm nay, kinh tế Nhà nước đó được hỡnh
thành, phỏt triển với những vcị trớ khỏc nhau trong nền kinh tế nhằm thực
hiện những nhiệm vụ kinh tộ nhất định của từng giai đoạn. Tuy vậy, trong
suốt cả thời kỳ lịch sử ấy, kinh tế nhà nước luôn luôn là lực lượng chủ đạo,
nũng cốt, là cụng cụ duy nhất để Nhà nước đưa đất nước đi lên theo con
đường Xó hội chủ nghĩa(1955).
Sau khi hoà bỡnh lập lại ở miền Bắc(1955), đảng và nhà nước đó chủ
trương xây dựng xó hội chủ nghĩa ở miền Bắc theo cơ chế kế hoạch hoà tập
trung bao cấp để tạo cơ sở ban đầu cho một Nhà nước xó hội chủ nghĩa tương
lai khi giải phóng miền Nam và thống nhất nước nhà. Xuất phát điểm từ một
nền kinh tế được xây dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, vỡ vậy bước
đầu tiên khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xó hội là thực hiện cụng cuộc cải
Trang 6
tạo xó hội chủ nghĩa với nhiệm vụ thủ tiờu kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế
quốc doanh (Kinh tế quốc dân) và kinh tế tập thể. Từ đây một loạt các xí
nghiệp quốc doanh (XNQD) được ra đời bằng nhiều cách khác nhau: do Nhà
nước đầu tư xây dựng mới, hoặc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân. Đến
cuối thời kỳ cải tạo và khôi phục kinh tế, XNQD đó chiếm ưu thế tuyệt đối
trên nền kinh tế quốc dân. Kết quả là kinh tế tư bản tư nhân bị xóa bỏ để
chuyển sang một nền kinh tế mà kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể giữ vị
trí độc tôn. Đến năm 1960, kinh tế quốc doanh vươn lên trở thành lực lượng
kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân nước ta lúc bấy giờ. Và với chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi lên xó hội chủ nghĩa, kinh tế
quốc doanh được giao cho vai trũ chủ đạo của nền kinh tế từ đây.
Giai đoạn 1960 đến 1985:
Đây là giai đoạn khá dài mà lịch sử đất nước đó trải qua những bước
thăng trầm về chính trị, xó hội và kinh tế.
Từ 1960 đến 1975: Vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ở giai
đoạn này Đảng ta chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá xó hội chủ nghĩa
miền Bắc và đấu tranh giảu phóng miền Nam. Để tiến hành công nghiệp
hoá xó hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cỏch hợp lý”, và do đó các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư
nhiều hơn và phát triển hơn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là trong ngành
công nghiệp nặng. Một loạt các khu công nghiệp mới được hỡnh thành như:
Việt Trỡ, Thỏi Nguyờn, Vinh, Đông Anh(Hà Nội)… đây là cơ sở để kinh tế
quốc doanh được mở rộng và phân bổ được khắp các vùng kinh tế lớn, nó sẽ
làm hạt nhân, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Tế
quốc doanh trong giai đoạng này có vai trũ vừa là cụng cụ quan trọng để nhà
nước tiến hành công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm
gương phản ánh sự hành công của quá trỡnh xõy dựng CNXH ở nước ta, nó
khẳng định con đường mà Đảng ta đó lựa chọn là đúng đắn.Trên phương diện
chính trị xó hội, thỡ KTQD luụn là lực lượng tiến bộ xó hội, là đội quân tiên
phong trong việc mở rộng QHSX XHCN.
Từ năm 1975 đến 1980: Cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý vẫn
được duy trị. Sau khi thống nhất đất nước. với định hướng đưa cả nước đi lên
XHCN, nhưng có sự chênh lệch giữa hai miền Nam-Bắc, vỡ vậy Đảng ta chủ
trương tiếp tục mở rộng QHSX XHCN và công nghiệp hoá XHCN ở miền
Bắc, đồng thời tiến hành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam. Thi hành chủ
trương đó số lượng các XNQD trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (Công nghiệp,
Trang 7
nông nghiệp, thương nghiệp) tăng lên một cách nhanh chóng trên khắp cả
nước. Mặc dù so với giai đoạn trước đó sức đóng góp của KTQD trong giai
đọan này đó giảm sỳt, song KTQD vẫn đóng vai trũ chủ đạo, tuyệt đối quan
trọng công cuộc xây dựng và phát triển QHSX mới CNXH.
Từ 1980-1985: Giai đoạn này nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, năng
lực sản xuất của KTQD không được sử dụng tối đa do thiếu vật tư một cách
nghiêm trọng. Với quan điểm định hướng xây dựng CNXH nên KTQD vẫn
được nhà nước rất chú trọng tỡm giải phỏp thỏo gỡ giai đoạn này cơ chế kế
hoạch hoá tập trung đó cải tiến dần sang phi tập trung hoỏ trong quản lý kinh
tế, tuy vậy KTQD vẫn giữ vai trũ quan trọng tuyệt đối, trong sự phát triển
kinh tế - xó hội của đất nước, thể hiện ở chỗ các XNQD vẫn nắm giữ các
ngành then chốt như điện, hoá chất, luyện kim, xi măng…
Giai đoạn từ1986 đến nay:
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đó đưa ra chính sách kinh tế mới làm
nên một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế ở nước ta, đó là chính sách
đổi mới cơ chế kinh tế : xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trỡnh hỡnh thành cơ chế kinh tế
mới, công tác quản lý KTQD vẫn cũn tiếp tục được cải tiến theo hướng phi
tập trung hoá, kế hoạch hoá và quản lý và quản lý đối với KTQD, đồng thời
các thành phần kinh tế khác được hỡnh thành và chỳ trọng phỏt triển, đó là
kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và các thành phần khác. Từ đây KTQD
mất vị trí độc tôn trong nền kinh tế quốc dân. Song không có nghĩa là nó
không cũn giữ vai trũ chủ đạo nữa, mà ngược lại hơn bao giờ hết vai trũ chủ
đạo của kinh tế quốc doanh – đó đổi thành kinh tế nhà nước - được xem là
quan trọng và cần thiết nhất. Trên giác độ kinh tế thỡ KTNN luụn nắm giữ
những lĩnh vực then chốt, những ngành trọng yếu của nền kinh tế như: CN
năng lượng (dầu mỏ, than, điện), công nghiệp luyện kim, công nghiệp vật liệu
xây dựng…
Như vậy cùng với tiến trỡnh lịch sử xõy dựng và phỏt triển QHSX mới
XHCN của nước ta, KTNN đó khẳng định được vai trũ chủ đạo mà chỉ có nó
mới thực hiện được những nhiệm vụ mà lịch sử phát triển đưa ra KTNN đó
nắm được những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trũ mở
đường hướng dẫn nền kinh tế phát triển đúng định hướng đó chọn suốt cả một
thời kỳ lịch sử phỏt triển kinh tế.
2.2 Kinh tế nhà nước và vai trũ chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Trang 8
Để hiểu đúng vai trũ của một thành phần kinh tế trong một cơ chế kinh tế
nhất định thỡ ta phải hiểu được cơ chế vận hành và đặc trưng cơ bản của cơ
chế kinh tế đó. Vỡ vậy ở đây ta nghiên cứu về kinh tế nhà nước trong cơ chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thỡ trước hết ta sẽ tỡm hiểu qua về cơ
chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Ta có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá
do sự tác động của các quy luật vốn có của nó (đó là quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tê…), cơ chế đó giải
quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gỡ, như thế nào và cho ai.
Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị
trường.
Vậy nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN mà nước ta đang vận dụng là gỡ? Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, tức là bất kể thành phần kinh tế nào (hay đơn vị kinh tế nào)
của nền kinh tế cũng phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, nhưng đồng
thời phải tuân thủ các nguyên tắc của chế độ XHCN dưới sự quản lý của nhà
nước XHCN. Từ khái niệm này ta có thể hiểu nôm na rằng, xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là xây đựng một nền kinh tế thị
trường hướng tới chế độ XHCN, hướng tới thực hiện mục tiêu của XHCN đó
là mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ văn
minh.
Đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường là cơ chế tự phát, các nhân tố kinh
tế của cơ chế đó tự tác động qua lại theo quy luật kinh tế khách quan mà dẫn
đến sự biến đổi, phát triển của nền kinh tế. Đặc điểm đó vừa là ưu điểm, vừa
là hạn chế của cơ chế này. Nó có thể mang lại một nền kinh tế phát triển với
tốc độ nhanh, nhưng đồng thời mang lại những khuyết tật về xó hội đó là
phân biệt giàu nghèo, bất công, tệ nạn xó hội gia tăng…
Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo
hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tức là muốn dựa trên ưu điểm
của cơ chế thị trường để khắc phục những khó khăn của nền kinh tế kém phát
triển của nước ta, đồng thời đảm bảo tiến được mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xó hội cụng bằng, dõn chủ ,văn minh.
Ở các phần trên ta đó rỳt ra được rằng để xây dựng một nền kinh tế theo
chế độ XHCN thỡ nhất định kinh tế nhà nước phải luôn nắm vai trũ chủ đạo,
bởi nó là lực lượng kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất mới XHCN, nó là
công cụ để nhà nước dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế đi đúng hướng đó chọn, nú
Trang 9
đóng vai trũ quan trọng trong việc mở đường và hướng đẫn cho nền kinh tế
phát triển. Cũn trong cơ chế kinh tế thị trường thỡ sao?
Nếu nền kinh tế thị trường được để phát triển một cách tự do, không sự
quản lý của nhà nước thỡ sẽ bộc lộ rừ ngay những hạn chế, yếu kộm, những
khuyết tật vốn có của nó. Bởi vậy với định hướng xó hội chủ nghĩa cú sự
quản lý của nhà nước thỡ nền kinh tế thị trường của chúng ta đạt được thành
quả cả về mặt xó hội và kinh tế. Muốn như vậy, mối quan hệ mới XHCN càng
phải được củng cố và phát triển hơn nữa – mà đại diện của nó là thành phần
kinh tế nhà nước phải được tổ chức làm sao ngày càng hoàn thiện và nắm
được vai trũ chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường. Đó là đũi hỏi khỏch
quan do những đặc điểm của cơ chế kinh tế mới.
Thứ nhất, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, theo xu hướng hội
nhập với khu vực và quốc tế, nhưng để có thể hội nhập vào nền kinh tế thế
giới đũi hỏi cỏc doanh nghiệp phải cú cơ sở vật chất, kỹ thuật có quy mô,
công nghệ hiện đại ngang tầm với các nước khác trên thế giới. Bởi có như vậy
Việt Nam mới có thể phát huy được những lợi thế so sánh so với các nước
khác và đứng vững để cạnh tranh được với nền kinh tế vốn lớn mạnh của các
nước trong khu vực và thế giới.
Nhưng một đặc điểm rất nổi bật của các thành phần kinh tế cá thể và tư
bản tư nhân là quy mô sản xuất của chúng rất nhỏ bé, lượng vốn đầu tư xây
dựng cơ sở sản xuất ban đầu rất nhỏ chúng chỉ đủ khả năng tham gia vào một
số ngành, lĩnh vực mà có khả năng tạo lợi nhuận nhiều nhất, đầu tư ít vốn
nhưng chu kỡ quay vũng vốn nhanh và chỉ có thể cạnh trong nước, hơn một lý
do rất đơn giản là quy mô quá nhỏ hep, vốn quá ít không đủ điều kiện để hội
nhập với các nước bạn.
Trong điều kiện đó thỡ kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước
có quy mô lớn và vừa mới có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế với
các nước trên thế giới. Bởi chỉ có Nhà nước mới có đủ nguồn vốn để xây
dựng được các doanh nghiệp nhà nước đủ lớn trong các ngành, lĩnh vực then
chốt, các ngành kinh doanh mà Việt Nam có lợi thế so sánh so với các nước
khác. Do đó mà kinh tế nhà nước trở thành lực lượng giữ vai trũ dẫn dắt, làm
hạt nhõn để các danh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân dân có thể tham
gia vào nền kinh tế hội nhập.
Một lý do thứ hai khiến kinh tế nhà nước trở thành lực lượng đầu tàu
trong việc dẫn dắt nền kinh tế nước ta hiện nay là vỡ trong nền kinh tế luụn
luụn cú những ngành, lĩnh vực rất khú cú khả năng sinh lời hoặc cũn rất nhiều
Trang 10
vựng kinh tế cú cơ sở hạ tầng thấp kém khó đầu tư sản cuất, do đó mà các
thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh thỡ
kinh tế nhà nước phải tham gia vào hoạt động trong các ngành kinh tế hay các
vùng kinh tế để tạo dựng được những cơ sở vật chất ban đầu, thu hút dần các
phần tử kinh tế khác cùng tham gia vào hoạt động. Có như thế thỡ mới hỡnh
thành nờn một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng
xó hội chủ nghĩa ở nước ta đó là tạo nên một nề kinh tế có các ngành, lĩnh vực
được đầu tư, phát triển một cách cân bằng, có các vùng kinh tế phát triển song
song với nhau.
Thứ ba, để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thỡ đũi hỏi
phải cú sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế bằng pháp luật.
Những nhà hoạt động sản xuất kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu quan
trọng nhất đó là làm sao tối đa hoá được lợi nhuận. Nhưng tỡnh hỡnh nước ta
hiện nay, các chủ thể kinh hoanh có thể có trỡnh độ hiểu biết về ý thức, về
quản trị kinh doanh rất khác nhau, có người tham gia vào kinh doanh chỉ vỡ
họ cú vốn nhưng lại thiếu hẳn các ý thức và kiến thức cần thiết, điều đó dễ
dẫn đến những sai phạm về pháp luật và thường chỉ vỡ lợi nhuận cỏc nhõn mà
quyờn mất lợi ớch của xó hội. Kinh tế nhà nước với lực lượng kinh tế luôn
được nhà nước chú trọn về khâu đào tạo cán bộ có ý thức pháp luật, do đó
trong giai đoạn hiện nay đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần
gương mẫu để các thành phần kinh tế khác học tập để hoạt động có hiệu quả
hơn.
Từ ba lý do trờn mà ta thấy kinh tế nhà nước đương nhiên phải là thành
phần kinh tế nắm vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế với tư cách là lực lượng đi
đầu trong quá trỡnh hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, là đội quân mở
đường cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia mở rộng hoạt động sản
xuất, kinh doanh tạo một cơ cấu kinh tế phát triển cân đối hợp lý, là lực lượng
gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, hướng dẫn các thành phần
kinh tế khác cùng thực hiện theo luật pháp trong cơ chế kinh tế mới đảm bảo
phát triển một nền kinh tế thị trường lớn mạnh với một xó hội phỏt triển đúng
định hướng đó chọn của Đảng.
3. Nội dung vai trũ chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Để đảm bảo thực hiện được vai trũ là thành phần kinh tế chủ lực của nền
kinh tế trong giai đoạn hiện nay thỡ kinh tế nhà nước phải thực hiện được bốn
Trang 11
nội dung hay là bốn chức năng của nó trong kinh tế nhiều thành phần của
nước ta hiện nay.
* Thứ nhất, kinh tế nhà nước mà thành phần chính là các doanh nghiệp
nhà nước, phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Là lực lượng kinh tế được nhà nước chú trọng đầu tư, phát triển, do Nhà
nước nắm giữ nguồn vốn chi phối do đó quy mô hoạt động của các kinh tế
nhà nước và đặc biệt là thành phần doanh nghiệp nhà nước rất rộng lớn, và
đang ngày càng được tổ chức sắp xếp lại theo hướng hiện đại nhằm hoạt động
có hiệu quả hơn. Bởi nguồn vốn đầu tư lớn, chủ yếu trong các doanh nghiệp
nhà nước có 100% vốn của nhà nước hoặc nhà nước giữ cổ phần chi phối)
nên các doanh nghiệp nhà nước có điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật,
công nghệ hiện đại. Có khả năng tạo ra năng xuất, chất lượng các loại hàng
hoá, dịch vụ cao, sử dụng tối đa và tận dụng được các nguyên nhiên vật liệu
đầu vào, tiết kiệm được chi phí sản xuất nhưng mang lại hiệu quả sản xuất
cao, đóng góp ngân sách lớn. Chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có khả năng
đi đầu trong việc việc ứng dụng ác công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao để có
thể đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới.
Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân
và thành phần kinh tế cá thể (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh)
cũng đóng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức
năng này thỡ kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát
triển thỡ mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong
mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ có sự thanh đổi, luân
chuyển từ ngành này sang ngành khác, do đó việc xác định ngành lĩnh vực
then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như
tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển
đúng hướng thỡ kinh tế nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả, thu hút dần các
thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào – như thế là kinh tế nhà nước đó
tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng góp phần vào
việc tăng trưởng kinh tế.
Để tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khỏc phỏt triển thỡ kinh tế
nhà nước phải đi đầu trong việc chuyển giao công nghệ, áp dụng công hiện
đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được
Trang 12
đầu tư do ít có khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện
về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật
công nghệ sản xuất để từđó mở đờng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh
dạn cùng tham gia đầu tư phát triển.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của cỏc doanh nghiệp ngày nay cũn gắn
liền với việc bảo vệ môi trường hạn chế việc gây ô nhiễm môi trường, do đó
đay cũng là mọt tiêu thức của phát triển mà doanh nghiệp nhà nước phải đi
đầu, làm gương để các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ô
nhiễm môi trườngcó liên quan đến vấn đề công nghệ và vấn đề lợi nhuận của
các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với số vốn ít ỏi thỡ
cụng nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiờn vỡ mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà các
doanh nghiệp bỏ qua vấnđề môi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải
thể hiện vai trũ chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đó là khi nhạp và
cung cấp các thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thỡ doanh
nghiệp nhà nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ô nhiễm môi
trường và doanh nghiệp nhà nước phải luôn đi đầu trong việc thực hiện luật
bảo vệ môi trường để các doanh nghiệp khác đi theo.
* Thứ hai, bằng nhiều hỡnh thức, kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần
kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên
phải xây dựng một lực lượng kinh tế đóng vai trũ chủ đạo, làm tâm điểm ảnh
hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực
lượng kinh tế khác cùng phát triển theo cùng một định hướng đó chọn và đó
chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, không một nền kinh tế nào phát triển mà
chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đó phải là sự phát triển đồng bộ của
nhiều thành phần kinh tế có thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước.
Tuy nhiên như đó phõn tớch ở cỏc phần trờn chúng ta biết rằng quy mô của
các thành phần kinh tế tư nhân của nước ta cũn rất nhỏ hẹp, mặt khỏc thời
gian phỏt triển cũn ngắn nờn cỏc doanh nghiệp dõn doanh chưa thể tích luỹ để
mở rộng quy mô lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triển kinh tế nước ta.
Trong điều kiện đó, chỉ các doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện để trở
thành lực lượng nguồn cốt, tạo choừ dạ cững chắc cho để dẫn dắt các doanh
nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điể đó thỡ kinh tế nhà
nước phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mỡnh một cỏch hợp
lý. Luụn giữ được vị trí, vai trũ xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác
được khả năng đóng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước,
Trang 13
kinh tế nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then
chốt, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xó hội, trở thành xương sống
của nền kinh tế quốc dân, để từ đó các thành phân kinh tế khác có được chỗ
dựa vững mà cùng phát triển, đi lên.
Mặt khác, trong cơ chế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu mà các
doanh nghiệp theo đuổi, do đó các thành phần khác thường tập trung kinh
doanh ở những ngành kinh tế hoặc những vùng có khả năng đưa đến lợi
nhuận cao một cách nhanh chóng mà ít rủi ro nhất, do đó sẽ tạo ra lỗ hổng là
những ngành và vùng kinh tế kém tiềm năng hoặc đũi hỏi đầu tư lớn: đó là
các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển có cơ sở hạ tầng thấp kém. Để
khắc phục tỡnh trạng đó, đồng hởi mở đường kích thích các thành phần khác
cùng tham gia vào hoạt động sản xuất thỡ kinh tế nhà nước phải có mặt để
xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là điều
kiện tiên đề tạo thuận lợi trước mắt thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế.
Đó cũng là một chức năng thể hiện vai trũ chủ đạo, mở đường, hỗ trợ các
thành phần kinh tế phát triển theo đúng đinh hướng XHCN, bởi nó cân bằng
được trỡnh độ phát triển giữa các vùng kinh tế, giảm bớt hố ngăn cách giữa
thành thị và nông thôn.
Phát triển theo đúng định hướng XHCN cũn thể hiện ở việc tuõn theo
phỏp luật mà nhà nước XHCN đó đề ra. Thực tế hiện nay cho thấy khụng ớt
chủ cỏc doanh nghiệp dõn doanh chỉ vỡ lợi nhuận cỏ nhõn mà bất chấp cả
phỏp luật, hoặc cỏo những hoạt động thiếu ý thức pháp luật. Tất yếu đấy là
vấn đề mà nhà nước phải có biện pháp giải quyết, và DNNN là một trong
những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế vấn đề này. Vỡ vậy, DNNN
phải là tấm gương mẫu mực trong việc tuân theo phát luật để các doanh
nghiệp khác cùng noi theo.
* Thứ ba : KTNN là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế
vĩ mô.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là : các đơn
vị kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trũ điều tiết
nền kinh tế theo định hướng XHCN.
Các đơn vị kinh tế luôn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đó là sản
xuất cái gỡ, cho ai và như thế nào theo mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Điều
đó dẫn đến kết quả là các dơn vị kinh tế luôn chạy theo những loại hàng hoá
và dịch vụ mang đến nhiều lợi nhuận và sẽ rút khỏi thị trường các loại hàng
hoá không có lói hoặc lỗ. Tuy nhiờn khụng phải mọi doanh nghiệp đều luôn
Trang 14
thu nhận được thông đầy đủ để quyết ịnh tham gia vào sản xuất mặt hàng nào,
tất sẽ dẫn tới phát sinh những mâu thuẫn giữa cung cầu ở mọi lúc, mọi nơi đỗi
với mọi mặt hàng. Để điều tiết được nền kinh tế đó thỡ nhà nước sử dụng
KTNN là một lực lượng vật chất hay một công cụ điều tiết hiệu quả, là vỡ :
Thứ nhất: KTNN từ khi được hỡnh thành cho tới nay luụn được chú
trọng đầu tư ở hầu khắp các kĩnh vực, ngày kinh té, vả ngành không có khả
năng sinh lợi nhuận. (Các hàng hoá, dịch vụ công cộng) do đó nó làm cân đối
giữa các ngành của nền kinh tế. Với tư cách là công cụ điều tiết, các DNNN
được nhà nước đầu tư phát triển theo phương châm: “Ở đâu, khi nào nền kinh
tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó mà
các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh
thỡ khi đó cần có sự có mặt của DNNN”, đến một lúc nào đó khi khả năng
sinh lời tăng lên thỡ doanh nghiệp dõn doanh nhày vào hoạt động và đủ khả
năng cung cấp cho thị trường thỡ DNNN rút ra và tiếp tục hoạt động ở các
lĩnh vực khác.
Thứ hai : trong các vùng kinh té luôn có sự phát triển mất cân đối giữa các
ngành kinh tế đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát
triển. Nhà nước đó rất chỳ trọng đầu tư phát triển ở các vùng này từ rất lâu và
hiện nay nó đó phỏt huy chức năng điều tiết cho kinh tế của các vùng đó
tương tự như tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế vĩ mô của cả nước.
Thứ tư : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo dẫn nền tảng kinh tế
cho chế độ xó hội mới, XHCN.
Theo luận điểm của Mác-Lenin thỡ chế độ XHCN phải được xây dựng
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tức là mọi tư liệu sản xuất đều
thuộc sở hữu chung của tập thể, của toàn dân, không một cá nhân nào được
biến TLSX thành tài sản riờng của mỡnh. Đó được coi là chế độ sở hữu tiến
bộ nhất trong lịch sử phát triển của xó hội loài người. Khi xem xét về nguồn
gốc hỡnh thành KTNN ta đó biết rằng KTNN được xây dựng dựa trên hỡnh
thức sở hữu toàn dõn, cũn kinh tế tập thể được xây dựng dựa trờn hỡnh thức
sở hữu tập thể, trong thời kỳ quỏ độ lên CNXH của nước ta thỡ đây là hai
hỡnh thức sở hữu được xem là tiến bộ nhất, nó đại diện cho QHSX mới
XHCN. Vỡ vậy để xây dựng nền kinh tế XHCN thỡ KTNN cựng kinh tế tập
thể cú vai trũ là nền tảng cơ bản .
II. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trũ chủ đạo của KTNN trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét