Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Tài liệu Tiểu luận triết học P68 doc

Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ thuật,
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng.
Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ thống phân
công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống
phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát
triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc
gia vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lượng mới.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản
xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy
của khoa h
ọc, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển
sâu rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao
động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ
giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn
cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là k
ết quả của các quá trình tích luỹ về số lượng đã
tạo ra một khối lượng tới hạn để số lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa,
khu vực hoá đã chuyển thành xu hướng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là
một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất
chi phối.
Và trong đó đặc trưng n
ổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới
tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có
quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn
cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các
chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đườ
ng phát triển của mình. Toàn
cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật,
công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều
quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và
hoạt động [ Thẩm Kỳ Như – Trung Quốc không làm bất tiên sinh…Viện TTKH, Học
Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


viện CTQG HCM, H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển mới chưa từng có. Lịch sử
đã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể sản
xuất được tất cả các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm
về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt.
Thành tựu có đượ
c như ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế
này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại không thể khác được. Chỉ có những quốc
gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng
vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra
ngoài lề của sự phát triển.

Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


II. cơ sở thực tế :
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội
nhập.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế
nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao
độ nội lực, đồ
ng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.[Trích văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 89] Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được đề ra
trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó
lường trước được, với những
đặc điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng đều.
Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng
hoảng kinh tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực thay đổi
theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến
2002 bắt đầu suy giảm; kinh t
ế Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh như các thập
kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước thuộc Liên Xô trước đây và
nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng
tương đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển ngoạn mục; Đông Nam á và Đông á
phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua
đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục; Nam á và Châu Phi vẫ
n chưa thoát khỏi
tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nước
trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho
nhân loại và những hậu quả xã hộ
i hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân
lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn mới
Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản
phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự sống, tạo
ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con
người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệ
u công nghiệp thoả
mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng
lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ … mở ra một tiềm năng mới cho loài người
chinh phục tự nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất ngày càng giải
phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm
phục vụ xã hội.
Xu th
ế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống của tất
cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ
và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Nền sản
xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đạt tới trình độ ngày
càng cao. Phương châm kinh doanh lấy thế giớ
i làm nhà máy của mình, lấy các nước
làm phân xưởng của mình, qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng ưu thế
kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy quá trình quốc
tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá,
nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức
kinh tế
và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu
(EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)…
Hiện nay, các nước lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi
chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn như Trung
Quốc, Nga, ấn Độ
, Mỹ…và cả một số nước vốn khép kín, theo mô hình tự cung tự
cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu mà
không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa
Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm
nghèo, chống tội phạm quốc tế…
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ,
do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh tế
phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp
đặt điều kiện với
những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây
cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát
triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu
tranh chống chính sách tăng cường quyền áp đặt của Mỹ để bả
o vệ lợi ích của mình
vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
ở khu vực Đông Nam áđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua
cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998, song vẫn
là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý kinh tế của mình,
dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo tố
t,
có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói chung
và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.

2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển
Thế giới ở vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ
đang chứng kiến những
đổi thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần
xã hội. Toàn cầu hoá nổi lên như một trong những xu hướng chủ đạo chi phối hệ
thống quan hệ quốc tế hiện đại. Xét trên phương diện sản xuất vật chất xã hội, một
giai đoạn mới củ
a lịch sử nhân loại đang từng bước quá độ từ xẫ hội gắn với nền văn
minh công nghiệp lên nấc thang phát triển cao hơn. Nấc thang phát triển này được
đặc trưng bởi công nghệ và cơ cấu kinh tế mới – kinh tế tri thức, trên cơ sở áp dụng
Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


rộng rãi các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, các phương tiện truyền tin hiện
đại và máy tính.
Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phổ biến theo hướng
nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động, những
mô hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học, kỹ thuật. Trong đó các
nước đang phát triển tham gia với động lực cơ bản là nhằm mở rộng th
ị trường xuất
khẩu, tạo mối liên kết thương mại giữa các quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức
phong phú, hoạt động có hiệu quả. Và cho đến nay, một số các quốc gia đang phát
triển đã đạt được những tiến bộ vượt bậc ví như : ở khu vực Đông Nam á có Thái
Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển mạnh sang kinh tế hướng về xuất khẩu và thu
được những thành quả tố
t.
Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết thương mại thì chính sách tỷ
giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan
đã làm cho hoạt động thương mại tại các nước mở rộng thị trường và tăng khối lượng
hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là thị trường
vốn có mố
i liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ hội hội nhập
với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm soát đối với đồng
vốn chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao dịch
thông qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận thả nổi đồng tiền, đã làm
cho
đồng vốn đổ vào các nước này tăng nhanh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc ổn
định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút vốn,
một mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ từ đó cải thiện mức thâm
hụt ngân sách. Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo ni
ềm tin cho các chương
trình phát triển hỗ trợ cho những quốc gia thành công trong cải cách kinh tế và mở
cửa.
Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức
thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh to
lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào.
Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại v
ới ưu thế về vốn và công
nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hoá nói chung và
toàn cầu hoá kinh tế nói riêng thành quá trình tự do hoá kinh tế và áp đặt chính trị
theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các nước, nhất là các nước đang phát
triển, đều phải tìm kiếm các đối sách để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình
diện và đầy nghịch lý.
Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành được độc lập
dân tộc và chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế – xã hội của các nước chậm phát
triển và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại về sự tụt
hậu so v
ới trình độ của các nước phát triển. Khoảng cách ấy không những không
được khắc phục, rút ngắn mà còn thực sự trở thành nguy cơ chia cắt thế giới làm hai
nửa khác biệt: vài chục quốc gia tiên tiến đã vượt hơn 100 quốc gia thuộc “thế giới
thứ ba” hàng vài thập niên phát triển hoặc gấp trăm lần chênh lệch về thu nhập bình
quân GDP tính theo đầu người.
Các nước này tuy đã giành được độc lập, đ
ó là một thành quả vô cùng quan
trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho nên, họ vẫn
bị phụ thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản : từ khai thác – sử dụng tài
nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – công nghệ đến thị trường tiêu thụ cũng
như phân công lao động quốc tế… Các nước đang phát triển đang phải đối diện tr
ước
thách thức của nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Bởi một cơ cấu kinh tế còn
nhiều bất hợp lý, trong đó tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập
quốc dân, cộng thêm với trình độ thấp kém về năng suất lao động, cho nên tốc độ
Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


phát triển kinh tế của đa số các nước đang phát triển thấp và bấp bênh. Trong thập
niên 60, các nước đang phát triển đạt mức tăng trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3%
thì đến thập niên 80 là 2% và những năm vừa qua của thập niên 90 tuy tình hình có
được cải thiện, song cũng chỉ đạt mức trên 4% trong khi tỉ lệ tăng dân số vẫn còn ở
mức trên 2%/năm.
Không những thế vấn đề nợ nước ngoài c
ũng trở thành gánh nặng đối với các
nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước ngoài
của các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ 6 tỉ năm 1995 lên
trên 2000 tỉ đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng số nợ đã vượt xa so với
tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các nướ
c đang phát
triển không chỉ được biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà còn là tình trạng nhiều nước
không có khả năng thanh toán dù chỉ là lãi suất hằng năm, trong khi dó tốc độ của các
khoản vay vẫn gia tăng và không hề có dấu hiệu giảm bớt.
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương
mại giữa các nước đang phát triển và phát triể
n. Chỉ tính riêng qua trao đổi không
ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.
Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản phẩm của
các nước đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát triển. Qua con
đường đầu tư, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, các cường quốc tư bản không chỉ
thu lợi do bán các thiết bị công nghệ lạc h
ậu và gây ô nhiễm mà còn khống chế nhiều
huyết mạch kinh tế quan trọng của các nước đang phát triển. Còn các nước đang phát
triển, do áp lực bức bách của nhu cầu cải thiện đời sống kinh tế, đã dễ dàng chấp
nhận “chào đón” bất kỳ sự cải tiến kỹ thuật – công nghệ nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản
nào. Sự đơn giản dễ dãi này, mặ
c dù trước mắt có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
song rất có thể phải trả giá đắt bởi các hậu quả kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa
chọn kỹ thuật – công nghệ, cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế – xã hội đang đặt ra
Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


những tiêu chuẩn phức tạp hơn để có thể tận dụng mọi cơ hội phát triển cho cả ngày
mai, không chỉ vì những cái lợi tức thời trước mắt.
Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển và
các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau thì sao?
Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nướ
c này đều có sự tương đồng về
trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân lực và thị
trường…trong khi tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật – công nghệ và tri thức quản lý hiện
đại. Hơn nữa, những lợi thế nêu trên dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ và toàn cầu hoá hiện nay không còn có vai trò, ý nghĩa nổi bật như các
thập niên trước
đây. Điều đó cho thấy, các nước đang phát triển cần thiết phải có cách
tiếp cận mới trong hợp tác cùng nhau. Chỉ có như vậy, khuôn khổ và cơ chế hợp tác
mới thực sự trở nên hữu ích và thiết thực đối với các nước đang phát triển. Đồng thời,
nó đóng góp và việc phối hợp các nỗ lực chung của các nước đang phát triển nhằm
từng bướ
c khắc phục và hạn chế những hậu quả tiêu cực của toàn cầu hoá cũng như
trong quá trình xúc tiến quan hệ với các nước phát triển.
Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhưng đó cũng
là một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát triển, thôi
thúc họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực và k
ết hợp với
chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện tiên quyết –
chìa khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay.

3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát tri
ển đất nước
không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế
thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những
luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời
Trường Đại học KTQD Tiểu luận Triết


phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác
những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên
môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công
cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN
1995, tr74)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế k
ỷ trước,
nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào
không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho
một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng
đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với
các nước tư bản chủ nghĩa mặ
c dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách
bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta.
Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh
tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ
VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi x
ướng công cuộc đổi mới nhằm
đưa nước tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển khai Nghị
Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh
chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước này, Liên
bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho vi
ệc thực
hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các
Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII
tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải
pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính
sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối v
ới nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế.
Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu tư với nước ngoài
với những quy định khá thông thoáng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét