Báo cáo thực tập tốt nghiệp
phải được vận động sinh lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể
thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của
vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền, đồng tiền phải quay về nơi xuất phát
có giá trị lớn hơn.
Thứ ba: Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hóa đặc
biệt. Nói vốn là một loại hàng hóa vì nó có giá trị, giá trị sử dụng như mọi
loại hàng hóa khác. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Khác với những
hàng hóa khác, quyền sử hữu vốn và quyền sử dụng vốn có thể được gắn
với nhau nhưng cũng có thể được tách rời nhau.
Thứ tư: Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định
mới có thể phát huy được tác dụng. Do đó các doanh nghiệp không chỉ có
nhiệm vụ khai thác các tiềm năng về vốn mà còn phải tìm cách thu hút các
nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Vốn phải có giá trị về mặt thời gian. Điều này có ý nghĩa
khi bỏ vốn vào đầu tư phải xét tính hiệu quả của đồng vốn mang lại. Trong
nền kinh tế thị trường, do ảnh hưởng của giá cả, lạm phát và lãi suất nên
sức mua của đồng tiền ở thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
Thứ sáu: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được
quản lý chặt chẽ. Nếu không xác định được chủ sở hữu thì việc sử dụng
vốn và tài sản sẽ gây lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả.
• Vai trò của vốn kinh doanh:
Vốn là điều kiện tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu tiến hành sản
xuất đều phải cần đến vốn. Nếu không có vốn doanh nghiệp sẽ không thể
mua sắm tài sản cố định, thuê mướn nhân công để phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Vốn là điều kiện duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở
rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm cho người
lao động. Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng trên
5
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
thị trường, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả họat động sản xuất kinh
doanh. Nếu doanh nghiệp thiếu vốn quá trình sản xuất sẽ bị đình trệ, không
đảm bảo được các hợp đồng đã ký với khách hàng dẫn đến mất thị phần,
mất khách hàng; doanh thu và lợi nhuận giảm sút và không đạt được các
mục tiêu đã đề ra.
Vốn kinh doanh có vai trò như một đòn bẩy, thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp phát triển, là điều kiện để taọ lợi thế
cạnh tranh, khẳng định vai trò cuả doanh nghiệp trên thị trường.
Vốn kinh doanh còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận
động của tài sản, kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính. Qua đó, các nhà quản trị
doanh nghiệp biết được thực trạng khâu sản xuất, đánh giá hiệu quả sản
xuất kinh doanh, phát hiện được các tồn tại, tìm ra nguyên nhân và đưa ra
các biện pháp khắc phục.
1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh:
1.1.2.1. Vốn cố định:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay
lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh tóan, chi trả bằng tiền.
Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu
hình và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số vốn
đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả thì sẽ không
mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm,
hàng hóa hay dịch vụ của mình.
TSCĐ là biểu hiện về mặt hiện vật của vốn, còn VCĐ là biểu hiện về
mặt giá trị của TSCĐ. Do vậy, TSCĐ và VCĐ có mối quan hệ mật thiết với
nhau, chúng vừa là biểu hiện của nhau đồng thời vừa chi phối lẫn nhau.
VCĐ là số vốn đầu tư ứng trước hình thành nên TSCĐ của doanh
nghiệp nên quy mô vốn cố định sẽ quyết định đến quy mô của TSCĐ, ảnh
hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản
6
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế
của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối
đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Do đó, VCĐ và TSCĐ là hai
phạm trù độc lập nhưng nằm trong một thể thống nhất. Vì vậy, để có thể
hiểu chi tiết về VCĐ, trước hết ta cần tìm hiểu về TSCĐ.
TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có
giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, còn giá trị của nó thì được
dịch chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
Thông thường một tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải đồng thời thỏa
mãn hai tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Một là phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường từ một năm trở
lên.
- Hai là phải đạt giá trị tối thiểu ở mức quy định. Tiêu chuẩn này được
quy định đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức
giá cả của từng thời kỳ.
Ở Việt Nam hiện nay tiêu chuẩn về mặt giá trị theo QĐ206/2003 của
Bộ Tài Chính ban hành ngày 12/12/2003 là từ 10 triệu đồng trở lên.
Ngoài hai tiêu chuẩn trên thì theo QĐ206 thì tài sản là TSCĐ phải
thỏa mãn thêm hai điều kiện nữa là:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài
sản đó
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy.
Đặc điểm chung của TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là tư liệu lao động. Trong quá
trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là không
thay đổi. Song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị
sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố
chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản
phẩm được tiêu thụ. Để giúp cho công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả
7
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
TSCĐ người ta tiến hành phân loại TSCĐ.
Thông thường có 4 tiêu thức phân loại TSCĐ (xem sơ đồ)
Mỗi cách phân loại trên cho phép xem xét, đánh giá kết cấu TSCĐ
của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Đối với mỗi doanh nghiệp,
việc phân loại TSCĐ là rất cần thiết, giúp doanh nghiệp chủ động điều
chỉnh kết cấu TSCĐ hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ nói
riêng và VKD nói chung.
Từ đó có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố
định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh
- Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ
sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được
luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí
khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ.
- Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng
luân chuyển khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm tăng dần lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần giảm
xuống cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển
dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành
một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc
quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái vật chất
của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về vốn cố định
như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng
trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần
8
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ
hết thời gian sử dụng.
1.1.2.2. Vốn lưu động:
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn kinh doanh được ứng ra để
hình thành nên TSLĐ của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ nên đặc điểm vận động của vốn lưu động
luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của TSLĐ. Trong các doanh
nghiệp thường chia TSLĐ thành hai loại: TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu
thông.
TSLĐ sản xuất bao gồm các loại nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng
thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang…đang trong quá trình dựu trữ
sản xuất hoặc sản xuất chế biến. Còn TSLĐ lưu thông bao gồm các sản
phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong
thanh tóan, các khoản chi phí chờ kết chuyển….Trong quá trình sản xuất
kinh doanh các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động, thay thế
và chuyển hóa lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được
tiến hành liên tục.
Phù hợp với các đặc điểm của TSLĐ, vốn lưu độngcủa doanh nghiệp
cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: Dự
trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và
thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu
chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn
lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu
sang hình thái vốn vật tư hàng hóa dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại
trở về với hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động
hoàn thành một vòng chu chuyển.
Vốn lưu động có những đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn lưu động tham gia toàn bộ một lần vào một chu kỳ sản xuất,
9
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
giá trị chuyển dịch toàn bộ một lần.
- Trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn lưu
động thường xuyên vận động và chuyển hóa các hình thái biểu hiện qua các
giai đoạn của chu kỳ kinh doanh.
Vậy, VLĐ và TSLĐ là một cặp phạm trù không thể tách rời. VLĐ là
biểu hiện giá trị cuả TSLĐ, TSLĐ là biểu hiện về mặt hiện vật của VLĐ.
Thông thường vốn lưu động được phân loại theo 3 cách khác nhau
(theo sơ đồ)
Mỗi cách phân loại có một tác dụng khác nhau nhưng mục đích
chung đều là giúp doanh nghiệp quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn lưu
động.
1.1.3. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các nguồn tài
chính mà doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng trong một thời kỳ nhất
định để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Để tổ chức và lựa chọn hình thức
huy động vốn thích hợp, có hiệu quả, cần thiết phải có sự phân loại vốn.
Tùy từng tiêu thức nhất định mà nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành các loại khác nhau.
* Căn cứ vào quan hệ sở hữu vốn, nguồn vốn kinh doanh của doanh
nghiệp được chia làm hai loại:
- Nguồn vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp mới được thành lập thì nguồn vốn chủ sở hữu
hình thành vốn điều lệ cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư góp vốn, được
sử dụng để đầu tư, mua sắm các loại tài sản của doanh nghiệp. Trong quá
trình họat động, nguồn vốn chủ sở hữu được bổ sung từ kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nguồn vốn liên doanh, liên kết. Vốn
chủ sở hữu được xác định là phần vốn còn lại trong tài sản của doanh
10
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả.
- Nợ phải trả: là nguồn vốn mà doanh nghiệp khai thác, huy động từ
các chủ thể khác qua vay nợ, thuê mua, ứng trước tiền hàng…Doanh
nghiệp được quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian sau đó phải hoàn
trả cho chủ nợ. Bao gồm: vay ngắn hạn, vay dài hạn, phải trả cho người
bán, người mua trả tiền trước, thuế và các khoản phải nộp Nhà nước, phải
trả công nhân viên, phải trả nội bộ…
Ta có: Tổng tài sản của DN = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn
nói trên để đảm bảo nhu cầu vốn cho họat động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn này được xem là hợp lý phụ
thuộc vào đặc điểm mà doanh nghiệp đang hoạt động, tình hình phát triển
của nền kinh tế cũng như tình hình thực tế của doanh nghiệp.
* Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia nguồn
vốn của doanh nghiệp thành hai loại:
- Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định, dài
hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc
đầu tư mua sắm TSCĐ và một bộ phận TSLĐ tối thiểu thường xuyên cần
thiết cho họat động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn thường
xuyên được xác định như sau:
Nguồn vốn thường xuyên = Nợ dài hạn + Nguồn vốn chủ sở hữu
- Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một
năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất
tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng
và các tổ chức tín dụng, các khoản vốn chiếm dụng…
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét, huy động các
nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp
thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
11
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
doanh nghiệp.
* Căn cứ vào phạm vi huy động vốn, nguồn vốn kinh doanh của
doanh nghiệp được chia thành hai loại:
- Nguồn vốn bên trong: là nguồn vốn được huy động từ nội bộ doanh
nghiệp, bao gồm tiền khấu hao hàng năm, lợi nhuận để lại, các khoản dự
phòng…nguồn vốn này có tính chất quyết định trong hoạt động của doanh
nghiệp.
- Nguồn vốn bên ngoài: Là nguồn vốn có thể huy động từ bên ngoài
doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Loại vốn bao gồm: vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh
tế tín dụng, các tổ chức kinh tế cá nhân trong và ngoài nước…Nguồn vốn
bên ngoài doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp nhất là
trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay. Sử dụng nguồn vốn này,
doanh nghiệp có thể khai thác ảnh hưởng tích cực của đòn bẩy tài chính để
khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu, nhưng phải tính đến chi phí sử dụng
vốn và kết quả sản xuất kinh doanh phải bù đắp được chi phí sản xuất và có
lãi.
Từ việc phân loại nguồn vốn kinh doanh theo các tiêu thức trên ta có
thể rút ra kết luận:
+ Việc phân loại giúp cho người quản lý doanh nghiệp biết được cơ
cấu nguồn vốn kinh doanh từ đó lựa chọn nguồn vốn bổ sung thích hợp và
hiệu quả nhất.
+ Phân loại nguồn vốn còn xác định đúng các trọng điểm và biện
pháp quản lý sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ
thể của doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp:
1.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp buộc phải tiến hành
12
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, xuất phát từ quan hệ
cung cầu. Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? không
xuất phát từ chủ quan của doanh nghiệp hay từ mệnh lệnh của cấp trên mà
xuất phát từ nhu cầu thị trường, từ quan hệ cung cầu và lợi ích của doanh
nghiệp.
Mục đích của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế trường là sản xuất
kinh doanh đem lại hiệu quả cao. Lấy hiệu quả làm thước đo cho mọi hoạt
động của doanh nghiệp. Hiệu quả là lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù
đắp hết các khoản chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh. Do đó, nhiệm vụ
của các doanh nghiệp là phải phân bổ, sử dụng nguồn vốn của doanh
nghiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh sao cho hợp lý và có hiệu quả.
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có ảnh hưởng quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ
tiêu biểu hiện một mặt về hiệu quả kinh doanh. Phản ánh trình độ quản lý
và sử dụng vốn của doanh nghiệp trong việc tối đa hóa kết quả, lợi ích hoặc
tối thiểu hóa lượng vốn và thời gian sử dụng theo các điều kiện về nguồn
lực xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
Như vậy có thể hiểu là với một lượng vốn nhất định bỏ vào họat
động sản xuất kinh doanh sẽ đem lại lợi nhuận cao nhất và làm cho đồng
vốn không ngừng sinh sôi nảy nở, tức là hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở
hai mặt: bảo toàn được vốn và tạo ra được các kết quả theo mục tiêu kinh
doanh, trong đó đặc biệt là kết quả về sức sinh lời của đồng vốn. Bên cạnh
đó, phải chú ý cả mặt tối thiểu hóa lượng vốn và thời gian sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Kết quả sử dụng vốn phải thỏa mãn được lợi ích của doanh
nghiệp và các nhà đầu ở mức độ mong muốn cao nhất, đồng thời nâng cao
được lợi ích của toàn bộ nền kinh tế.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả sử dụng VKD
của doanh nghiệp. Nhưng dù đứng trên quan điểm nào, thì về bản chất hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
13
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
dụng các nguồn nhân tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất
trong quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra thấp nhất.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong
doanh nghiệp:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh vận động liên
tục và nhu cầu vốn ở mỗi thời điểm khác nhau là khác nhau. Đồng vốn bỏ
ra có khả năng sinh lời có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Nếu sử dụng đồng vốn không có hiệu quả, không bảo
đảm được vốn, không làm cho nó sinh lời thì doanh nghiệp sẽ không tồn tại
và dẫn đến nguy cơ phá sản. Vì vậy việc tổ chức và đảm bảo kịp thời, đầy
đủ vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là mục tiêu và là yêu
cầu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Việc tăng cường công tác tổ chức và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn trong các doanh nghiệp xuất phát từ những nguyên nhân sau:
* Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh đều hướng tới mục tiêu là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở
hữu dựa trên cơ sở nâng cao lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng
tổng hợp liên quan đến tất cả các mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, là nguồn tích lũy cơ bản để tái sản xuất mở rộng. Đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, doanh nghiệp có tồn tại và phát
triển được hay không thì điều kiện quyết định là doanh nghiệp có tạo ra
được lợi nhuận hay không? Vì thế lợi nhuận được coi là một trong những
đòn bẩy quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Do đó, sản xuất như thế nào để thu được lợi nhuận
cao là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp.
* Xuất phát từ vai trò của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp:
Vốn là tiền đề, là xuất phát điểm cho mọi hoạt động sản xuất kinh
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét